Tài liệu Ngữ văn xin chào bạn! Cám ơn bạn đã ghé thăm blog!

Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2014

Bí ẩn cuộc đời nữ sỹ Hồ Xuân Hương

1. Giới thiệu
Văn học sử Việt Nam ta có ghi ba nữ sĩ nổi danh: Đoàn Thị Điểm, Bà huyện Thanh Quan (tương truyền tên là Nguyễn Thị Hính) và Hồ Xuân Hương. Trong đó Xuân Hương không trội tiếng nhất thì cũng là vị tài nữ dị thường hơn cả. Dị thường đến độ tác phẩm được cái vinh dự ít có, là bị khai trừ trong hầu hết các sách giáo khoa! Vì thi văn của nàng, nếu cho là phóng đãng, thì phẩm-từ này chỉ là lối nói xuôi đỡ đòn mà thôi... Hơn nữa, thời đại nàng sống đâu đã đến đồi phong bại tục quá cỡ, khiến sui - hay giải thích - sự táo bạo của văn nghệ sĩ!
Tuy không tìm ra được bằng chứng xác thực về năm sinh của nữ sĩ, song cũng có một vài mốc giúp ta suy luận được: Xuân Hương sống cùng thời với những người tiếng tăm, như Phạm Đình Hổ, tác giả nhiều sách giá trị và như Nguyễn Huệ - bậc anh hùng đại thắng quân Tàu năm 1788. Nguyễn Huệ sinh năm 1752. Phạm Đình Hổ năm 1768.
Nguyễn Huệ nguyên họ Hồ tên tục là Thơm, con của Hồ Phi Phúc, cùng quê ở Nghệ An với Hồ Phi Diễn, thân phụ Hồ Xuân Hương, Cùng quê, cùng họ, nếu suy ra là thân thích với nhau, e mang tiếng cho nhà giàu vay thêm! Xem năm sinh của Phạm Đình Hổ và của Hồ Thơm, chúng ta có thể đoán già là Xuân Hương đã chào đời trong khoảng 1770 - 1775.
Mấy khoa hương thi không đậu cả, Hồ Phi Diễn đương là nho sinh, xoay làm thầy đồ dạy trẻ mà cũng thấy khó sống trong đất Nghệ đồng cháy cỏ khô, nên phải lang thang ra Bắc, để vợ ở quê coi mồ mã gia tiên. Bảo bọc ít lâu ở tỉnh Hải dương, bấy giờ đã ngoài bốn mươi, ông gá nghĩa với một bà họ Hà cũng chừng ba chục. Bà này chuộng cai phong độ nhà nho, lại thấy vẻ người hiền lành nhã nhặn, nên chịu làm vợ lẽ miễn là được sống riêng với chồng.
Ở tỉnh nhỏ nghe cũng khó mưu sinh ông đồ đem vợ mới về Thăng Long để kiếm chỗ dạy đông trẻ hơn. Ông tìm được ngôi nhà rộng rãi ở phường Khán Sơn ven Hồ Tây (vùng vườn Bách Thú ngày nay, nơi này hiện còn đài Khán Xuân). Người lối xóm ai cũng mến ông là người có tác phong đạo đức, lại nghe giọng nói trọ trẹ nên thường gọi là ông đồ Nghệ chứ không nêu tên. Chính ở khu ngoại thành "cỏ cây chen đá lá chen hoa" này, Xuân Hương đã chào đời vào một ngày mùa xuân. Hai chữ tên là cha đặt cho, lấy nghĩa hương mùa xuân và cũng là hương trên đài Khán xuân.
Ông đồ Nghệ sáu năm sau đó bỗng từ trần vì một cơn bạo bệnh, để lại vợ con trong hoàn cảnh nghèo nàn. Nhưng bà đồ là người đảm đang, tuy vất vã về mưu sinh nhưng không ngần ngại cho con gái theo đòí bút nghiên để giữ cốt cách con nhà: giấy rách còn lề không như thói thường, sợ con gái học chữ dễ hư thân. Nhờ vậy mà Xuân Hương được góp mặt trong làng văn tự, đem thiên tài tô điểm cho ngôn ngữ nước ta thêm phần bóng bảy tinh vi, cho tư tưởng dân ta đỡ phần giáo điều cứng ngắc.

Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2014

"Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" – Bi kịch về cái đẹp bị bức tử

   Trong các nhà văn Việt Nam, Nguyễn Huy Tưởng là tác giả có thiên hướng rõ rệt về đề tài lịch sử. Các tác phẩm của ông về đề tài này tái hiện những cột mốc lịch sử quan trọng suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì viết về những ngày đất nước chìm trong đêm tối đau thương bởi sự hèn yếu và nhiễu nhương bởi tay một người đàn bà có nhan sắc khuynh thành làm chúa Trịnh mê đắm đến mụ mị và đứa em trời đánh của mình: Tuyên phi Đặng Thị Huệ cùng “cậu trời” Đặng Mậu Lân. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đưa các bạn đọc (nhất là các em thiếu nhi) ngược dòng thời gian về với triều đại nhà Trần, với người thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản hiên ngang, tay bóp nát quả cam, tay phất cao lá cờ “Phá cường địch, báo hoàng ân” xin đức thượng hoàng cho cầm quân đánh giặc. Tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô lại là khúc tráng ca ngợi ca người Hà Nội quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh trong ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vào mùa đông năm 1946. Còn với vở bi kịch Vũ Như Tô,  nhà văn Nguyễn Huy Tưởng lại khai thác bối cảnh Thăng Long trong những năm quằn quại dưới sự bạo tàn của Lê Tương Dực thông qua hình ảnh Cửu Trùng Đài “huy hoàng giữa cõi trần lao lực” và người nghệ sĩ  “tranh tinh xảo với hóa công”: Vũ Như Tô. Thông qua vở kịch này, Nguyễn Huy Tưởng muốn đề cập đến người nghệ sĩ và bi kịch của họ, bi kịch cái đẹp bị lợi dụng. Bi kịch ấy được tập trung cao nhất trong hồi V – hồi kết của vở kịch: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.
     Xuyên xuốt vở kịch, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài như một hiện thân của cái đẹp. Người nghệ sĩ mong muốn  tạo tác nên một tác phẩm nghệ thuật vĩnh cửu nhằm “ tô điểm cho đất nước, đem hết tài ra xây cho giống nòi một tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công”. Đó là cái đẹp thuần khiết của nghệ thuật, nhằm phụng sự nhân dân, phụng sự đất nước, có giá trị tôn vinh người Việt. Nhưng đáng tiếc, cái đẹp mà Vũ Như Tô mong muốn ấy đã bị lợi dụng và hoen ố bởi những dục vọng thấp hèn và toan tính chính trị của người đời. Trong các hồi trước, chúng ta thấy cái đẹp đã lần lượt phải chịu những oan khuất như bịtha hóa (Lê Tương Dực chỉ coi Cửu Trùng Đài là chốn an chơi hưởng lạc chứ không phải là công trình nghệ thuật để lại cho muôn đời sau như mong muốn của Vũ Như Tô), hiểu lầm (Nhân dân coi Cửu Trùng Đài là cội nguồn gây nên đau khổ của họ chứ không phải là chính sách hà khắc của triều đình phong kiến đương thời) và lợi dụng (Trịnh Duy Sản dùng Cửu Trùng Đài như công cụ thổi bùng lên những uất ức trong lòng dân chúng, tạo nên một thời thế hỗn loạn để thuận tiện cho âm mưu giết vua đoạt quyền của mình). Đến hồi kết Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, khi tất cả những bức xúc, những mâu thuẫn không thể điều hòa được ấy được dồn nén và bung ra một cách mạnh mẽ nhất, tất yếu cái đẹp phải gánh chịu số phận nghiệt ngã đó là sự bức tử. Chỉ trong hồi cuối này, chúng ta thấy thông qua hàng loạt những thủ pháp kịch độc đáo, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã dụng công lột tả năm lần cái đẹp bị bức tử một cách đầy cay đắng.
    Thứ nhất, bức tử về quan niệm. Cửu Trùng Đài trong con mắt quân khởi loạn không phải là công trình thế kỷ, trường tồn cùng hóa công và Vũ Như Tô không phải là “nguyên khí của quốc gia” để phải trân trọng, kính phục. Với bọn chúng và tuyệt đại bộ phận nhân dân lao động, Cửu Trùng Đài và Vũ Như Tô chỉ là những thứ, những kẻ làm “hao hụt công khố, để dân gian lầm than”, khiến cho “mấy nghìn người chết… mẹ mất con, vợ mất chồng”. Sự bức tử về quan niệm này là kết quả của sự tích tụ, dồn nén những oan khuất mà cái đẹp phải chịu trong các hồi trước như chúng tôi đã đề cập ở trên. Và khi tất cả những quá trình ấy được đẩy lên đến ranh giới cuối cùng  thì việc cái đẹp bị bức tử cũng là điều tất yếu. Cái chết của cái đẹp đã giúp nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nêu bật lên tầm quan trọng của việc điều hòa giữa việc phục vụ đời sống dân sinh và khát vọng vươn lên chiếm giữ đỉnh cao bằng mọi giá của nghệ thuật. Nếu thiên về dân sinh, nghệ thuật sẽ không còn là chính mình. Nhưng nếu chỉ biết đến bản thân mình, nghệ thuật rất có thể lại là hóa thân của cái ác.
    Thứ hai, bức tử về sự thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ. Tấm lòng biệt nhãn liên tài mà Đan Thiềm dành cho Vũ Như Tô đã bị các cung nữ, Kim Phụng và quân khởi loạn vu khống gán ghép cho tội “tư thông” - một tội danh xúc phạm nặng nề đến nhân cách con người. Hành động cầu xin tha mạng cho Vũ Như Tô vì “Nước ta còn cần nhiều thợ tài để tô điểm” của Đan Thiềm bị coi là lời xin của con “dâm phụ” cho kẻ “gian phu”. Thật đau đớn và chua xót cho một tấm lòng “vì thiên hạ” mà chịu nỗi oan tày đình như thế. Nếu Đan Thiềm - trong giây phút tính mạng bản thân gặp nguy hiểm – mà “trở mặt” hùa về phe cung nữ và Kim Phượng thì chắc nàng đã không bị vu khống cho tội danh ghê gớm như vậy. Rõ ràng ở đây mọi sự  chia sẻ, cảm thông và thấu hiểu với cái đẹp đã bị loại trừ một cách tàn bạo, không chút thương tiếc.
    Thứ ba, bức tử về sự thanh minh. Cho đến tận phút giây nguy nan nhất, Vũ Như Tô vẫn muốn đến gặp An Hòa Hầu để “phân trần, để giảng giải” về tầm quan trọng của Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô tin tưởng rằng Nguyễn Hoằng Dụ thấu hiểu và cho mình hoàn thành nốt “Cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thuở”. Nhưng đáp lại những lời đề nghị tha thiết, đầy chân thành ấy là những tràng cười ầm lên, là những lời xỉ vả và những cái tát vào miệng Vũ Như Tô của quân khởi loạn. Ở đây, cái đẹp đã bị tước đi quyền thanh minh cho bản thân mình.
    Thứ tư, bức tử về vật chất. Cửu Trùng Đài, hiện thân của cái đẹp sau cùng đã thành đống tro tàn trước mệnh lệnh phóng hỏa của An Hòa Hầu. Công trình hứa hẹn là kì công của con người đã thành tro bụi trước sự bạo tàn trong vui vẻ đáng ngạc nhiên của con người. Sự sụp đổ của Cửu Trùng Đài là sự biến mất vĩnh viễn sự hiện hữu của cái đẹp. Cửu Trùng Đài giờ chỉ được lưu giữ trong ký ức, trong nỗi hoài niệm của những con người nhận chân được giá trị đích thực của cái đẹp.
    Thứ năm, bức tử về con người nghệ sĩ. Bị hiểu lầm về mục đích xây dựng Cửu Trùng Đài, người tri âm tri kỷ cũng mất, không có cơ hội thanh minh, và quan trọng nhất là công trình thể hiện ước mơ, hoài bão của cả đời người bị thiêu rụi… sau tất cả những sự chà đạp, những tổn thương ấy, việc người nghệ sĩ Vũ Như Tô bị/hay mong muốn đưa ra pháp trường cũng là điều dễ hiểu. Cái chết của Vũ Như Tô là nỗi đau cuối cùng và lớn nhất về cái đẹp bị bức tử một cách toàn diện.
    Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm. Lời đề tựa của vở kịch giúp chúng ta thấy ấm lòng. Hóa ra, cái đẹp dẫu phải chịu sự bức tử ghê gớm đến nhường nào thì vẫn mãi trường tồn. Người đương thời không hiểu thì hậu thế sẽ hiểu. Lê Tương Dực, An Hòa Hầu và người dân Thăng Long không hiểu Vũ Như Tô thì Nguyễn Huy Tưởng và thế hệ ngày nay hiểu ông, trân trọng tài năng và tâm huyết của ông đối với sự nghiệp điểm tô non sông nước nhà. Dẫu thế nào đi chăng nữa, cái đẹp cuối cùng sẽ hoàn thành sứ mệnh cao cả “cứu rỗi thế giới” như lời văn hào Dostoevsky. Đây có lẽ mới là thông điệp chính của vở bi kịch Vũ Như Tô.
ĐOÀN MINH TÂM

Nguồn: Văn học và tuổi trẻ

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

Không đề 3

Chòng chành một sóng mắt trong,
Hương rượu thoang thoảng cho lòng ta say.
Ta say trời đất lăn quay,
Cỏ cây mở lối Thiên Thai gặp nàng.
16/3/2014

Không đề 2

Lời mật ngọt đầu môi,
Tưởng là lời vàng đá,
Đem ghi lòng tạc dạ,
Giờ phút chốc phôi pha.

Giữa ngã bảy ngã ba,
Bàn tay buông lạt lẽo.
Anh dần chìm khuất nẻo,
Chòng chành nỗi buồn neo.

Nắng cuối ngày hắt heo,
Bên anh là ai đó,
Cũng xinh tươi bé nhỏ,
Tựa vai buổi hẹn hò.

Em lỡ bước sang đò,
Dặn lòng thôi dậy sóng,
Dặn lòng đừng ảo mộng,
Ném thảy vào hư không.

Nhưng nỗi nhớ chênh chông,
Tình đầu thôi đâu dễ,
Nhìn anh mà nhòa lệ,
Lạnh lùng tràn cõi mê.

Chiều Thiên Thai

Có những chiều gió cứ hắt heo bay
Mắt em gầy mang mang một huyền thoại
Mây chở nắng se trên nhánh hoa dại
Em chở hồn anh se vào trời xanh.
Có những chiều bên thềm suối vắng thênh
Tiếng em hát trôi róc rách theo dòng.
Chim xao cánh ngỡ thiên thai đi lạc
Em khẽ cười mây trắng bỗng mênh mông.
Có những chiều anh ngồi đếm hư không
Để nỗi nhớ cứ dâng trào tha thiết
Lá hồn nhiên những điều không thể biết
Cứ thả mình rơi vọng khoảng không tên.
Có một chiều nắng đổ bóng chông chênh
Em xa ngái tóc dài hui hút gió
Anh thẫn thờ ôm niềm đau bé nhỏ
Em chợt về nơi đâu có tên anh.
Rồi những chiều có một kẻ lữ hành
Đi kiếm tìm bóng người thương thuở trước
Gió ngàn ru bóng trăng ngà thẫn thượt
Đưa hồn người vào cõi mộng thiên thu.

Cảm "Trao duyên" (Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Phút đòi đoạn trao duyên tơ tóc,
Giữa hiếu – tình không thể chọn hai.
Cậy em trả nghĩa cho ai,
Trăng xưa từng nguyện không phai lời thề.
Chàng thì đã sơn khê cách trở,
Nàng thì giờ trả nợ cho người.
Hiểu em chịu lụy một đời,
Mong tình máu mủ chịu lời cho cam.
Tự nhận mình bị hàm oan khuất,
Mệnh bạc gieo đoạn khúc tình đầu,
Làm sao không tủi với sầu,
Dùng dằng đưa – níu ngõ hầu của chung.
Kỉ vật trao mà lòng chết héo,
Gặp gỡ chi cho khéo tình cờ,
Mong ai đừng có ơ hờ,
Hồn ai nương náu vật vờ dương gian.
Nghĩa trúc mai đa mang một thuở,
Chén nước tình tưởng nhớ người xưa.
Con tạo đày đọa cho vừa,
Kẻ chắp duyên thừa, kẻ phụ tình yêu!
Đã cam chịu một điều bạc mệnh,
Sao ái ân để lụy đến chàng?
Thôi đành trâm gãy gương tan,
                                                Muôn chung nghìn tứ lỡ làng từ đây!

Không đề

Người thầy lãng tử của chúng tôi,
Dặt dìu lẩy bao điệu bồi hồi,
Tịch tình khúc ru hồn dân tộc,
Vọng đâu từ thuở ta trong nôi.

Người thầy lãng tử của chúng tôi,
Tóc bồng theo điệu nhạc đầy vơi.
Mắt nhìn về cõi xa xăm lắm,
Tâm sự lắng trong nhạc và lời.

Đời thầy yêu nhạc, yêu con trẻ,
Yêu cây đàn bầu nét Việt Nam,
Yêu ánh mắt thơ hồn nhiên quá,
Thầy dạy tôi yêu điệu tình người.

Nhịp đời xô bồ cuốn tôi đi,
Ngẫm suy lời thầy có mấy khi!
Dòng đời bao đỗi chông gai quá,
Nên khiến lòng người cũng sân si.

Giật mình, đêm vắng tiếng đàn run,
Hẻm sâu hun hút lạnh tâm hồn,
Khơi dậy nổi nênh muôn niềm cũ
Nhớ người, mà nước mắt trào tuôn!

Không gian giăng mắc một màu thu,
Tiếng trống thúc thôi kẻ quay về.
Trở lại ngôi trường rêu phong đó,
Quay quắt bóng thầy trong tâm tư.

Thầy ở đâu rồi, thầy ở đâu?
Lớp nhạc còn đó, cây đàn bầu
Nằm lặng hồn nơi bờ tường lạnh,
Chắc nhớ người xưa mấy canh thâu!

Ơi hỡi đàn ơi có nhớ chăng,
Người thầy nghệ sĩ đã bao lần,
So dây đếm nhịp cho con trẻ,
                                               Tích tịch tình tang tiếng đàn ngân?