Tài liệu Ngữ văn xin chào bạn! Cám ơn bạn đã ghé thăm blog!

Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2014

Bí ẩn cuộc đời nữ sỹ Hồ Xuân Hương

1. Giới thiệu
Văn học sử Việt Nam ta có ghi ba nữ sĩ nổi danh: Đoàn Thị Điểm, Bà huyện Thanh Quan (tương truyền tên là Nguyễn Thị Hính) và Hồ Xuân Hương. Trong đó Xuân Hương không trội tiếng nhất thì cũng là vị tài nữ dị thường hơn cả. Dị thường đến độ tác phẩm được cái vinh dự ít có, là bị khai trừ trong hầu hết các sách giáo khoa! Vì thi văn của nàng, nếu cho là phóng đãng, thì phẩm-từ này chỉ là lối nói xuôi đỡ đòn mà thôi... Hơn nữa, thời đại nàng sống đâu đã đến đồi phong bại tục quá cỡ, khiến sui - hay giải thích - sự táo bạo của văn nghệ sĩ!
Tuy không tìm ra được bằng chứng xác thực về năm sinh của nữ sĩ, song cũng có một vài mốc giúp ta suy luận được: Xuân Hương sống cùng thời với những người tiếng tăm, như Phạm Đình Hổ, tác giả nhiều sách giá trị và như Nguyễn Huệ - bậc anh hùng đại thắng quân Tàu năm 1788. Nguyễn Huệ sinh năm 1752. Phạm Đình Hổ năm 1768.
Nguyễn Huệ nguyên họ Hồ tên tục là Thơm, con của Hồ Phi Phúc, cùng quê ở Nghệ An với Hồ Phi Diễn, thân phụ Hồ Xuân Hương, Cùng quê, cùng họ, nếu suy ra là thân thích với nhau, e mang tiếng cho nhà giàu vay thêm! Xem năm sinh của Phạm Đình Hổ và của Hồ Thơm, chúng ta có thể đoán già là Xuân Hương đã chào đời trong khoảng 1770 - 1775.
Mấy khoa hương thi không đậu cả, Hồ Phi Diễn đương là nho sinh, xoay làm thầy đồ dạy trẻ mà cũng thấy khó sống trong đất Nghệ đồng cháy cỏ khô, nên phải lang thang ra Bắc, để vợ ở quê coi mồ mã gia tiên. Bảo bọc ít lâu ở tỉnh Hải dương, bấy giờ đã ngoài bốn mươi, ông gá nghĩa với một bà họ Hà cũng chừng ba chục. Bà này chuộng cai phong độ nhà nho, lại thấy vẻ người hiền lành nhã nhặn, nên chịu làm vợ lẽ miễn là được sống riêng với chồng.
Ở tỉnh nhỏ nghe cũng khó mưu sinh ông đồ đem vợ mới về Thăng Long để kiếm chỗ dạy đông trẻ hơn. Ông tìm được ngôi nhà rộng rãi ở phường Khán Sơn ven Hồ Tây (vùng vườn Bách Thú ngày nay, nơi này hiện còn đài Khán Xuân). Người lối xóm ai cũng mến ông là người có tác phong đạo đức, lại nghe giọng nói trọ trẹ nên thường gọi là ông đồ Nghệ chứ không nêu tên. Chính ở khu ngoại thành "cỏ cây chen đá lá chen hoa" này, Xuân Hương đã chào đời vào một ngày mùa xuân. Hai chữ tên là cha đặt cho, lấy nghĩa hương mùa xuân và cũng là hương trên đài Khán xuân.
Ông đồ Nghệ sáu năm sau đó bỗng từ trần vì một cơn bạo bệnh, để lại vợ con trong hoàn cảnh nghèo nàn. Nhưng bà đồ là người đảm đang, tuy vất vã về mưu sinh nhưng không ngần ngại cho con gái theo đòí bút nghiên để giữ cốt cách con nhà: giấy rách còn lề không như thói thường, sợ con gái học chữ dễ hư thân. Nhờ vậy mà Xuân Hương được góp mặt trong làng văn tự, đem thiên tài tô điểm cho ngôn ngữ nước ta thêm phần bóng bảy tinh vi, cho tư tưởng dân ta đỡ phần giáo điều cứng ngắc.

Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2014

"Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài" – Bi kịch về cái đẹp bị bức tử

   Trong các nhà văn Việt Nam, Nguyễn Huy Tưởng là tác giả có thiên hướng rõ rệt về đề tài lịch sử. Các tác phẩm của ông về đề tài này tái hiện những cột mốc lịch sử quan trọng suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì viết về những ngày đất nước chìm trong đêm tối đau thương bởi sự hèn yếu và nhiễu nhương bởi tay một người đàn bà có nhan sắc khuynh thành làm chúa Trịnh mê đắm đến mụ mị và đứa em trời đánh của mình: Tuyên phi Đặng Thị Huệ cùng “cậu trời” Đặng Mậu Lân. Tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng đưa các bạn đọc (nhất là các em thiếu nhi) ngược dòng thời gian về với triều đại nhà Trần, với người thiếu niên anh hùng Trần Quốc Toản hiên ngang, tay bóp nát quả cam, tay phất cao lá cờ “Phá cường địch, báo hoàng ân” xin đức thượng hoàng cho cầm quân đánh giặc. Tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô lại là khúc tráng ca ngợi ca người Hà Nội quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh trong ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vào mùa đông năm 1946. Còn với vở bi kịch Vũ Như Tô,  nhà văn Nguyễn Huy Tưởng lại khai thác bối cảnh Thăng Long trong những năm quằn quại dưới sự bạo tàn của Lê Tương Dực thông qua hình ảnh Cửu Trùng Đài “huy hoàng giữa cõi trần lao lực” và người nghệ sĩ  “tranh tinh xảo với hóa công”: Vũ Như Tô. Thông qua vở kịch này, Nguyễn Huy Tưởng muốn đề cập đến người nghệ sĩ và bi kịch của họ, bi kịch cái đẹp bị lợi dụng. Bi kịch ấy được tập trung cao nhất trong hồi V – hồi kết của vở kịch: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.
     Xuyên xuốt vở kịch, Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng Vũ Như Tô và Cửu Trùng Đài như một hiện thân của cái đẹp. Người nghệ sĩ mong muốn  tạo tác nên một tác phẩm nghệ thuật vĩnh cửu nhằm “ tô điểm cho đất nước, đem hết tài ra xây cho giống nòi một tòa đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hóa công”. Đó là cái đẹp thuần khiết của nghệ thuật, nhằm phụng sự nhân dân, phụng sự đất nước, có giá trị tôn vinh người Việt. Nhưng đáng tiếc, cái đẹp mà Vũ Như Tô mong muốn ấy đã bị lợi dụng và hoen ố bởi những dục vọng thấp hèn và toan tính chính trị của người đời. Trong các hồi trước, chúng ta thấy cái đẹp đã lần lượt phải chịu những oan khuất như bịtha hóa (Lê Tương Dực chỉ coi Cửu Trùng Đài là chốn an chơi hưởng lạc chứ không phải là công trình nghệ thuật để lại cho muôn đời sau như mong muốn của Vũ Như Tô), hiểu lầm (Nhân dân coi Cửu Trùng Đài là cội nguồn gây nên đau khổ của họ chứ không phải là chính sách hà khắc của triều đình phong kiến đương thời) và lợi dụng (Trịnh Duy Sản dùng Cửu Trùng Đài như công cụ thổi bùng lên những uất ức trong lòng dân chúng, tạo nên một thời thế hỗn loạn để thuận tiện cho âm mưu giết vua đoạt quyền của mình). Đến hồi kết Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, khi tất cả những bức xúc, những mâu thuẫn không thể điều hòa được ấy được dồn nén và bung ra một cách mạnh mẽ nhất, tất yếu cái đẹp phải gánh chịu số phận nghiệt ngã đó là sự bức tử. Chỉ trong hồi cuối này, chúng ta thấy thông qua hàng loạt những thủ pháp kịch độc đáo, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã dụng công lột tả năm lần cái đẹp bị bức tử một cách đầy cay đắng.
    Thứ nhất, bức tử về quan niệm. Cửu Trùng Đài trong con mắt quân khởi loạn không phải là công trình thế kỷ, trường tồn cùng hóa công và Vũ Như Tô không phải là “nguyên khí của quốc gia” để phải trân trọng, kính phục. Với bọn chúng và tuyệt đại bộ phận nhân dân lao động, Cửu Trùng Đài và Vũ Như Tô chỉ là những thứ, những kẻ làm “hao hụt công khố, để dân gian lầm than”, khiến cho “mấy nghìn người chết… mẹ mất con, vợ mất chồng”. Sự bức tử về quan niệm này là kết quả của sự tích tụ, dồn nén những oan khuất mà cái đẹp phải chịu trong các hồi trước như chúng tôi đã đề cập ở trên. Và khi tất cả những quá trình ấy được đẩy lên đến ranh giới cuối cùng  thì việc cái đẹp bị bức tử cũng là điều tất yếu. Cái chết của cái đẹp đã giúp nhà văn Nguyễn Huy Tưởng nêu bật lên tầm quan trọng của việc điều hòa giữa việc phục vụ đời sống dân sinh và khát vọng vươn lên chiếm giữ đỉnh cao bằng mọi giá của nghệ thuật. Nếu thiên về dân sinh, nghệ thuật sẽ không còn là chính mình. Nhưng nếu chỉ biết đến bản thân mình, nghệ thuật rất có thể lại là hóa thân của cái ác.
    Thứ hai, bức tử về sự thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ. Tấm lòng biệt nhãn liên tài mà Đan Thiềm dành cho Vũ Như Tô đã bị các cung nữ, Kim Phụng và quân khởi loạn vu khống gán ghép cho tội “tư thông” - một tội danh xúc phạm nặng nề đến nhân cách con người. Hành động cầu xin tha mạng cho Vũ Như Tô vì “Nước ta còn cần nhiều thợ tài để tô điểm” của Đan Thiềm bị coi là lời xin của con “dâm phụ” cho kẻ “gian phu”. Thật đau đớn và chua xót cho một tấm lòng “vì thiên hạ” mà chịu nỗi oan tày đình như thế. Nếu Đan Thiềm - trong giây phút tính mạng bản thân gặp nguy hiểm – mà “trở mặt” hùa về phe cung nữ và Kim Phượng thì chắc nàng đã không bị vu khống cho tội danh ghê gớm như vậy. Rõ ràng ở đây mọi sự  chia sẻ, cảm thông và thấu hiểu với cái đẹp đã bị loại trừ một cách tàn bạo, không chút thương tiếc.
    Thứ ba, bức tử về sự thanh minh. Cho đến tận phút giây nguy nan nhất, Vũ Như Tô vẫn muốn đến gặp An Hòa Hầu để “phân trần, để giảng giải” về tầm quan trọng của Cửu Trùng Đài. Vũ Như Tô tin tưởng rằng Nguyễn Hoằng Dụ thấu hiểu và cho mình hoàn thành nốt “Cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thuở”. Nhưng đáp lại những lời đề nghị tha thiết, đầy chân thành ấy là những tràng cười ầm lên, là những lời xỉ vả và những cái tát vào miệng Vũ Như Tô của quân khởi loạn. Ở đây, cái đẹp đã bị tước đi quyền thanh minh cho bản thân mình.
    Thứ tư, bức tử về vật chất. Cửu Trùng Đài, hiện thân của cái đẹp sau cùng đã thành đống tro tàn trước mệnh lệnh phóng hỏa của An Hòa Hầu. Công trình hứa hẹn là kì công của con người đã thành tro bụi trước sự bạo tàn trong vui vẻ đáng ngạc nhiên của con người. Sự sụp đổ của Cửu Trùng Đài là sự biến mất vĩnh viễn sự hiện hữu của cái đẹp. Cửu Trùng Đài giờ chỉ được lưu giữ trong ký ức, trong nỗi hoài niệm của những con người nhận chân được giá trị đích thực của cái đẹp.
    Thứ năm, bức tử về con người nghệ sĩ. Bị hiểu lầm về mục đích xây dựng Cửu Trùng Đài, người tri âm tri kỷ cũng mất, không có cơ hội thanh minh, và quan trọng nhất là công trình thể hiện ước mơ, hoài bão của cả đời người bị thiêu rụi… sau tất cả những sự chà đạp, những tổn thương ấy, việc người nghệ sĩ Vũ Như Tô bị/hay mong muốn đưa ra pháp trường cũng là điều dễ hiểu. Cái chết của Vũ Như Tô là nỗi đau cuối cùng và lớn nhất về cái đẹp bị bức tử một cách toàn diện.
    Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm. Lời đề tựa của vở kịch giúp chúng ta thấy ấm lòng. Hóa ra, cái đẹp dẫu phải chịu sự bức tử ghê gớm đến nhường nào thì vẫn mãi trường tồn. Người đương thời không hiểu thì hậu thế sẽ hiểu. Lê Tương Dực, An Hòa Hầu và người dân Thăng Long không hiểu Vũ Như Tô thì Nguyễn Huy Tưởng và thế hệ ngày nay hiểu ông, trân trọng tài năng và tâm huyết của ông đối với sự nghiệp điểm tô non sông nước nhà. Dẫu thế nào đi chăng nữa, cái đẹp cuối cùng sẽ hoàn thành sứ mệnh cao cả “cứu rỗi thế giới” như lời văn hào Dostoevsky. Đây có lẽ mới là thông điệp chính của vở bi kịch Vũ Như Tô.
ĐOÀN MINH TÂM

Nguồn: Văn học và tuổi trẻ

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

Không đề 3

Chòng chành một sóng mắt trong,
Hương rượu thoang thoảng cho lòng ta say.
Ta say trời đất lăn quay,
Cỏ cây mở lối Thiên Thai gặp nàng.
16/3/2014

Không đề 2

Lời mật ngọt đầu môi,
Tưởng là lời vàng đá,
Đem ghi lòng tạc dạ,
Giờ phút chốc phôi pha.

Giữa ngã bảy ngã ba,
Bàn tay buông lạt lẽo.
Anh dần chìm khuất nẻo,
Chòng chành nỗi buồn neo.

Nắng cuối ngày hắt heo,
Bên anh là ai đó,
Cũng xinh tươi bé nhỏ,
Tựa vai buổi hẹn hò.

Em lỡ bước sang đò,
Dặn lòng thôi dậy sóng,
Dặn lòng đừng ảo mộng,
Ném thảy vào hư không.

Nhưng nỗi nhớ chênh chông,
Tình đầu thôi đâu dễ,
Nhìn anh mà nhòa lệ,
Lạnh lùng tràn cõi mê.

Chiều Thiên Thai

Có những chiều gió cứ hắt heo bay
Mắt em gầy mang mang một huyền thoại
Mây chở nắng se trên nhánh hoa dại
Em chở hồn anh se vào trời xanh.
Có những chiều bên thềm suối vắng thênh
Tiếng em hát trôi róc rách theo dòng.
Chim xao cánh ngỡ thiên thai đi lạc
Em khẽ cười mây trắng bỗng mênh mông.
Có những chiều anh ngồi đếm hư không
Để nỗi nhớ cứ dâng trào tha thiết
Lá hồn nhiên những điều không thể biết
Cứ thả mình rơi vọng khoảng không tên.
Có một chiều nắng đổ bóng chông chênh
Em xa ngái tóc dài hui hút gió
Anh thẫn thờ ôm niềm đau bé nhỏ
Em chợt về nơi đâu có tên anh.
Rồi những chiều có một kẻ lữ hành
Đi kiếm tìm bóng người thương thuở trước
Gió ngàn ru bóng trăng ngà thẫn thượt
Đưa hồn người vào cõi mộng thiên thu.

Cảm "Trao duyên" (Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Phút đòi đoạn trao duyên tơ tóc,
Giữa hiếu – tình không thể chọn hai.
Cậy em trả nghĩa cho ai,
Trăng xưa từng nguyện không phai lời thề.
Chàng thì đã sơn khê cách trở,
Nàng thì giờ trả nợ cho người.
Hiểu em chịu lụy một đời,
Mong tình máu mủ chịu lời cho cam.
Tự nhận mình bị hàm oan khuất,
Mệnh bạc gieo đoạn khúc tình đầu,
Làm sao không tủi với sầu,
Dùng dằng đưa – níu ngõ hầu của chung.
Kỉ vật trao mà lòng chết héo,
Gặp gỡ chi cho khéo tình cờ,
Mong ai đừng có ơ hờ,
Hồn ai nương náu vật vờ dương gian.
Nghĩa trúc mai đa mang một thuở,
Chén nước tình tưởng nhớ người xưa.
Con tạo đày đọa cho vừa,
Kẻ chắp duyên thừa, kẻ phụ tình yêu!
Đã cam chịu một điều bạc mệnh,
Sao ái ân để lụy đến chàng?
Thôi đành trâm gãy gương tan,
                                                Muôn chung nghìn tứ lỡ làng từ đây!

Không đề

Người thầy lãng tử của chúng tôi,
Dặt dìu lẩy bao điệu bồi hồi,
Tịch tình khúc ru hồn dân tộc,
Vọng đâu từ thuở ta trong nôi.

Người thầy lãng tử của chúng tôi,
Tóc bồng theo điệu nhạc đầy vơi.
Mắt nhìn về cõi xa xăm lắm,
Tâm sự lắng trong nhạc và lời.

Đời thầy yêu nhạc, yêu con trẻ,
Yêu cây đàn bầu nét Việt Nam,
Yêu ánh mắt thơ hồn nhiên quá,
Thầy dạy tôi yêu điệu tình người.

Nhịp đời xô bồ cuốn tôi đi,
Ngẫm suy lời thầy có mấy khi!
Dòng đời bao đỗi chông gai quá,
Nên khiến lòng người cũng sân si.

Giật mình, đêm vắng tiếng đàn run,
Hẻm sâu hun hút lạnh tâm hồn,
Khơi dậy nổi nênh muôn niềm cũ
Nhớ người, mà nước mắt trào tuôn!

Không gian giăng mắc một màu thu,
Tiếng trống thúc thôi kẻ quay về.
Trở lại ngôi trường rêu phong đó,
Quay quắt bóng thầy trong tâm tư.

Thầy ở đâu rồi, thầy ở đâu?
Lớp nhạc còn đó, cây đàn bầu
Nằm lặng hồn nơi bờ tường lạnh,
Chắc nhớ người xưa mấy canh thâu!

Ơi hỡi đàn ơi có nhớ chăng,
Người thầy nghệ sĩ đã bao lần,
So dây đếm nhịp cho con trẻ,
                                               Tích tịch tình tang tiếng đàn ngân?

VẬY LÀ…

Vậy là gấp lại trang thơ
Vậy là quờ quạng tay hờ tìm nhau
Vậy là chấp nhận thương đau
Vậy là em đã thành dâu nhà người!
Vậy là anh héo nụ cười
Vậy là anh chết lặng người em ơi!
                                                                                    5/3/2011

MUỘN…

Gió lăn tăn cỏ rối,
Em lăn tăn nỗi niềm,
Nhớ thương anh quay quắt,
Dáng hình khắc trong tim.

Anh là miền hạnh phúc
Mà em hằng ước ao.
Chỉ cần nhìn anh nói,
Thác lòng em tuôn trào.

Đôi mắt anh ấm áp,
Khiến em có niềm tin.
Trong giấc mơ còn thức,
Em gọi tên mối tình.

Nhưng anh ở bên em,
Mà sao xa, xa lắm…
Anh như làn khói mỏng
Tan nhanh vào hư không!

Tình em, anh không biết,
Bởi em yêu đơn phương.
Đối với anh, em chỉ
Như người dưng qua đường!

Em đến muộn một bước,
Thật buồn, phải không anh?!
Trái tim em vụn vỡ
Như hoa nát trên nhành.

Từ xa và phía sau,
Biết chăng anh yêu hỡi,
Mắt em trông vời vợi
Anh sánh bước bên người.

Có lúc em buông xuôi,
Có lúc em dằn dỗi,
Có lúc em bối rối,
Có lúc em khóc thầm…

Thế giới anh, không em;
Thế giới em, cô lẻ!
Yêu mà đau đến thế!
Em khóc lặng ngàn năm!

Thôi, chúc anh hạnh phúc
Với lựa chọn của mình!
Em nằm cùng mây trắng,
Đi về phía bình minh!
                                                                                    4/3/2011

Thứ Tư, 12 tháng 3, 2014

Xin cô hãy đánh con thật đau!

TTO - Trong khi văn minh nhân loại ngày càng tiến bộ về khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội, hầu hết mọi công dân trẻ trên thế giới đều tự hào về phong tục văn hóa của riêng mình, ra sức đánh bóng cho sự phong phú giàu đẹp của tiếng nước mình, thì dường như dân Việt và tiếng Việt lại là một ngoại lệ.
Tiếng Việt có vốn từ ngữ trù phú đẹp đẽ bậc nhất thế giới. Thứ tiếng nói ấy đã sản sinh ra không biết bao nhiêu là thể loại văn hóa tuyệt đẹp khác, nào ca trù, thơ, hịch, vè, phú, hò, cải lương... Tôi quả thật chua xót khi nhìn thấy nhiều bạn trẻ ngày nay, thay vì phong phú hóa hơn nữa "di sản phi vật thể" quý báu nhất của cha ông, thì họ lại đang làm cho nó bị tạp nhiễm đủ thứ tả pí lù. Giữa những nền văn hóa ngoại lai đang hăm he mần thịt tiếng Việt chính thống, thì "nền văn hóa" Internet là "bạo động" nhất. Với sự giới hạn về khả năng nghiên cứu, tôi chỉ xin được "bép xép" vài dòng về "nền văn hóa" này và những hệ lụy về đạo đức mà nó góp phần mang lại.
"Nền văn hóa" Internet tuy sinh sau đẻ muộn nhưng lại có sức mạnh tẩy não con người, bằng cách làm cho họ quên béng đi những vần những chữ những nguyên âm phụ âm mà các thầy cô giáo lớp 1 đã dầy công khổ luyện dạy bảo cho chúng ta suốt 9-tháng-10-ngày đầu tiên của đời học sinh, thời điểm mà tiếng Việt lành mạnh được phôi thai vào nhận thức.

Tiếng Việt giàu và đẹp

Ca dao xưa có câu: Nửa đêm giờ tý canh ba/ Vợ tôi con gái đàn bà nữ nhi. Vui đùa thôi, nhưng là cái vui của sự giàu có tiếng nói. Câu lục sáu tiếng đều là chỉ một khoảnh khắc thời gian. Câu bát tám tiếng đều là chỉ một phái tính.
Dạy tiếng Việt cho người nước ngoài hiện nay, thầy nói vui: tiếng Việt có thể còn hạn chế về các từ chỉ những khái niệm trừu tượng, khái quát, nhưng lại rất giàu các sắc thái biểu hiện từ. Riêng một từ đen thôi, mắt đen gọi là mắt huyền, răng đen là răng hạt na, quần đen của phụ nữ là quần thâm, ngựa đen là ngựa ô, chó đen là chó mực, đũa đen là đũa mun. Đấy là chưa kể các sắc độ của màu sắc nữa, ví như cũng là “đen” nhưng có biết bao loại: đen nhánh, đen tuyền, đen kịt, đen thẫm, đen thui... Học trò nước ngoài nghe thế kêu trời, bảo học tiếng Việt khó, khó quá.
Mà khó là phải. Một dịch giả nước ngoài dịch hai câu thơ của Nguyễn Khuyến Rượu ngon không có bạn hiền/ Không mua không phải không tiền không mua thành ra Fine wine, but no good friends/ So I buy none though I have the money thì chỉ còn là xác chữ, bởi tất cả tinh thần cảm xúc của câu thơ và của tác giả nằm ở năm chữ “không” của tiếng Việt đã không tải được qua tiếng Anh.

“Nói ngọng” và việc dạy phát âm đúng

Chữ quốc ngữ là một công cụ quý báu để lời ăn tiếng nói toàn dân gần nhau hơn, hiểu nhau tốt hơn. Trong đó, hiểu nhau qua cách phát âm là một điều vô cùng quan trọng.
Dù có nhiều cách truyền thông tin khác bằng chữ, bằng hình, bằng ký tín hiệu, nhưng thông tin bằng tiếng nói, bằng phát âm vẫn chiếm không ít hơn 2/3 lượng thông tin ta cần phát đi và thu nhận. Nhất là ngày nay giao lưu nhiều, tốc độ vận động nhanh, nếu phát âm và nhận âm không chuẩn trong công nghiệp, trong giao thông có thể gây ra tai nạn, trong đời sống giao lưu có thể gây ra hiểu lầm, đôi khi gây nên chuyện khôi hài không đáng có.
Ở một số nước châu Á, trong đó có VN, tiếng Hán cổ có vai trò như tiếng Latin ở châu Âu (ở châu Âu, trong các lĩnh vực khoa học, nghệ thuật, các khái niệm trừu tượng, các ngôn ngữ phần lớn dùng chữ gốc Latin). Muốn nói, viết cho đúng và hiểu được vốn văn hóa truyền thống của ta không thể không có kiến thức tối thiểu về kho từ có gốc Hán Việt.
Có học mới tránh được các chỗ dùng nhầm như “tham quan” gọi là “thăm quan”, chữ “vị tha” vốn là nói tính vì người khác, lo cho người khác, lại bị hiểu lầm là “tính dễ tha thứ”. Chữ “tha” vốn là “người thứ ba”, “người khác” bị hiểu thành “tha là tha bổng, tha thứ”. Do vậy, việc dạy và học chữ Hán Việt là cần thiết để làm giàu thêm cho ngôn ngữ của ta.
Như một lần ở Cuba, cô phiên dịch Maria đã học tiếng Việt bốn năm, khi dẫn tôi đi thăm khu biệt thự của Hemingway, cô nói: "Ông Hemingway hay đi bán sắn". Tôi phải chữa: "Không phải đi bán sắn mà là đi săn bắn".
Ðó là chuyện để cười vui thôi. Nhưng cũng nhân tiện nói tới đặc điểm khó truyền thông tin của tiếng ta. Tiếng Việt là loại đơn âm tiết, mỗi từ chỉ có một âm, nói sai, nghe sai là trật. Cộng với các thanh: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, nếu phát âm không chuẩn một từ này ra ngay một từ khác, ở một lĩnh vực khác. Ví dụ: chữ "tốt" mà nói "tôốc" hay "tôộc" thì chỉ có thể đoán được nghĩa nhờ cả câu nói, nhờ ngữ cảnh. Nhiều chữ phát âm thế này thì là thanh, phát âm khác đi thành tục.
Hiện nay có nhiều cách phát âm khác nhau do sự khác biệt về cư dân ở các vùng địa lý khác nhau. Một vùng rộng lớn ở đồng bằng Bắc bộ, bà con nói "uống lước", "đi nàm", "lằm ngủ", "năn nộn"... Tôi kiên quyết phản đối cách gọi hiện tượng đó là "nói ngọng". Chữ "ngọng", một nửa của cụm từ "ngọng nghịu", bao hàm một ý tứ khinh thị.

“Nước” - một từ đặc Việt

Lấy nơi sinh sống đặt tên cho lãnh địa dân tộc mình là lẽ thường tình. Nhiều nước có tên gọi gắn với “đất” (land). Scotland là “đất của những người nói tiếng Gaelic”, Phần Lan (Finland) là “đất của những người nói tiếng Finnic”, Hà Lan (Holland) là “vùng đất cây cối rậm rạp” và cũng là “những vùng đất thấp” (Netherlands), Ba Lan (Poland) là “đất của dân tộc Poles”. Nhưng người Việt dùng từ nước để chỉ lãnh thổ dân tộc: nước Việt Nam. Điều này gắn với huyền sử Việt, số con của bà Âu Cơ nửa lên núi, nửa xuống biển nên non nước, đất nước cũng là nước, là quốc gia.
Trong tiếng Việt, từ làng nước để chỉ những người cùng làng. Thú vị là từ làng cũng gắn với “những dải nước lớn”, vì người Việt cổ “quần cư quanh những dải nước lớn (cũng như đồng bào miền núi thường quần cư bên bờ suối, bờ sông) mà ngày xưa gọi là lang và sau này khi tiếng Việt đã có thanh điệu, cơ sở quần cư ấy được gọi là làng” (Nguyễn Kim Thản). Khi xâm lược nước ta, người Hán gọi dải nước rộng lớn, chạy dài suốt từ Yên Lãng, Đông Anh lên Từ Sơn... là Lãng Bạc. Theo mặt chữ, lãng là sóng, bạc là hồ nước lớn xung quanh có núi. Chữ lãng ở đây dùng để phiên âm từ láng mà người Việt Nam dùng để gọi dải nước này. Từ láng, theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê) có nghĩa là đầm, đìa. Hiện vẫn còn nhiều địa danh láng: làng Láng (ở Hà Nội, dưa La cà Láng), Láng Le, Láng Thé, Láng Cò, Láng Thờ (dưới đền Hùng)...

Chạy + X = chạy đi, Chạy + X = chạy đến

TT - Nói đến chạy có lẽ ai cũng hình dung một động tác rất thông thường. Đó là sự di chuyển thân thể (thường là bằng đôi chân) với những sải bước nhanh: chạy như bay, chạy ra ngoài đường, chạy việt dã (chạy trong địa hình tự nhiên), thỏ chạy nhanh hơn rùa...
So sánh, nếu chuyển dịch tương đương, ta thấy các từ như run (tiếng Anh), courir, filer (tiếng Pháp), begat’ (tiếng Nga)..., về cơ bản cũng mang nghĩa chuyển động (có hướng hoặc không có hướng) như vậy. Tuy nhiên trong giao tiếp tiếng Việt, từ chạy đã chuyển nghĩa khá đa dạng với các hướng ngữ nghĩa khác chiều nhau. Ta thử quan sát hai nhóm chạy sau:
Nhóm 1: chạy giặc, chạy lụt, chạy bão, chạy mưa, chạy tội, chạy án...
Nhóm 2: chạy gạo, chạy tiền, chạy việc, chạy điểm, chạy thầy, chạy thuốc...
Điều giống nhau dễ nhận ra ở cấu trúc hai nhóm trên là chạy được kết hợp với một từ (thường là từ đơn) khác để tạo ra một từ ghép mang nghĩa khái quát (về một tình huống nào đó). Nhưng ta cũng dễ dàng nhận ra cái khác biệt về mặt ngữ nghĩa là ở nhóm 1, người ta “chạy” để tránh xa sự thể được nói tới.
Chạy giặc là thoát ra vùng giặc giã, nguy hiểm, chạy mưa là tạm tìm chỗ (nào đó) để trú khỏi bị mưa, chạy tội là tìm cách sao cho thoát tội (lẽ ra mình phải nhận)...; còn ở nhóm hai ngược lại, người ta chạy là để mong có được cái đang nói tới. Chạy gạo là tìm cách để có gạo ăn, chạy việc là lo liệu tìm được việc làm như mong muốn, chạy thầy chạy thuốc là đi nhiều nơi mong tìm được thuốc hay thầy giỏi với hi vọng chữa được bệnh tình (của ai đó)...

Cái bụng chứa... tinh thần

TT - 1. Ðọc tít bài báo này chắc có bạn nghĩ bụng lại chuyện gì nữa đây? Nếu trong bụng còn nửa tin nửa ngờ xin bạn cũng đừng nóng lòng, sốt ruột, hãy bền lòng đọc tiếp và trước hết trả lời câu hỏi sau: Xin bạn vui lòng cho biết có thể tìm được những từ tiếng Anh, Pháp, Nga... chỉ bộ phận cơ thể con người ứng với "bụng", "lòng", "ruột"... của tiếng Việt để dịch những từ ngữ viết nghiêng trên đây được không?
Tôi nghĩ là không. Nếu bạn tìm được những trường hợp như vậy, xin đừng giữ trong bụng. Hãy nói ra, tôi sẵn lòng và hài lòng lắng nghe, vì tin rằng bạn không có bụng dạ gì. Nếu bạn đúng, dù hơi phiền lòng nhưng vì tôn trọng chân lý nên tôi buộc lòng chấp nhận và ghi lòng tạc dạ những điều tôi chưa hiểu thấu đáo.
Với những điều chưa thỏa đáng, tôi xin được nói lại, mong bạn đừng mếch lòng và cũng đừng để bụng làm gì. Vậy tôi cứ viết miễn sao các bạn ưng cái bụng là tốt lắm rồi.
2. Phần lớn cách dùng từ lòng trong tiếng Việt theo nghĩa bóng lại chuyển thành từ timtrong tiếng Anh, Pháp hoặc Nga... Vì sao vậy?
Lý thuyết ẩn dụ trong ngôn ngữ học hiện đại cho rằng con người là một vật chứa và thể hiện sự trải nghiệm thế giới vào ngôn ngữ. Tiếng Việt là một trường hợp điển hình.
Với người Việt, cái bụng là vật chứa tiêu biểu, nó chứa đựng và thể hiện những gì thuộc phạm trù tinh thần. Một chứng cứ là trong kho giai thoại Việt từng có người cởi trần nằm ngoài nắng để "phơi sách" - phơi chữ trong bụng. Những người lắm chữ nghĩa được coi là đầy một bụng sách. Mới rồi Nguyễn Quang Sáng viết "Ðúng là quên nhiều...
Nhưng viết lại khác, cái gì mình muốn viết nó nằm trong bụng rồi, chỉ cần khui ra thôi"(Tuổi Trẻ 13-1-2010). Trong tiếng Việt, bụng và những bộ phận của cái bụng lòng, dạ, gan, ruột,... trở thành biểu tượng cho phạm trù tinh thần. Chúng là một công cụ biểu hiện tư duy, tâm lý, tình cảm, ý chí, sức chịu đựng.

Nhân tết nói chuyện ăn

TT - Ăn là câu chuyện của muôn thuở. Từ cổ chí kim, hỏi có ai không ăn mà sống được? Tết nhất hội hè, người ta thường hay tổ chức ăn uống linh đình. Đó cũng là chuyện đương nhiên.
Trong bài này, tôi không có ý lạm bàn về chuyện ẩm thực (ẩm: uống, thực: ăn). Tôi muốn nhân đây để bàn về một vấn đề liên quan tới ngôn ngữ. Đó là ngữ nghĩa của tổ hợp từ ăn tết.
Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên) đã thống kê tới 159 tổ hợp có từ ăn đứng đầu. Dĩ nhiên các từ này phải có nghĩa xuất phát, nghĩa cơ bản của ăn, được giải thích là “tự cho vào cơ thể thức nuôi sống”. Ăn cơm, ăn cháo, ăn cám, ăn cỏ, ăn ráy, ăn khoai... là ăn các thức ăn cụ thể. Ăn sáng, ăn trưa, ăn tiệc, ăn cỗ, ăn sam... nói về việc ăn trong các thời điểm và nghi thức, kiểu cách khác nhau. Ăn bớt, ăn bẩn, ăn chặn, ăn cắp... là các lối “ăn” được coi là xấu, liên quan tới tư cách, phẩm chất của người ăn. Miếng ăn quá khẩu thành tàn (tục ngữ) mà!
Tuy nhiên, có một loạt tổ hợp ăn mà nghĩa chung của nó được thay đổi lệch sang thành tố sau. Ví dụ:
ăn chia: chia phần (giữa những người, những bên cùng tham gia một công việc nào đó). Tụi mình đã làm ăn với nhau trước hết ăn chia phải sòng phẳng; ăn cho đều kêu cho sòng (tục ngữ).
ăn chơi: chơi bời, tiêu khiển bằng các thú vui vật chất (và tinh thần). Tay ấy được coi là kẻ ăn chơi bậc nhất, sẵn sàng ném tiền qua cửa sổ.
ăn dỗ: dỗ dành, lừa phỉnh (để kiếm ăn). Rõ dơ! Người nom thế mà lại đi ăn dỗ trẻ con.

Triết lý tiếng Việt trong “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay”

TT - 1. Tôi thường nghe nhiều lời bình (và cả một số bài viết) về những hiện tượng “phi lý”, “thiếu lôgic” ở tiếng Việt. Trong số này có thành ngữ “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay”. Chân thấp tay cao, sao lại thượng cẳng chân?
Có giáo sư giải thích chân đá hất lên cao, tay đập xuống nên mới nói vậy. Và cũng có bài viết theo như thế. Bạn có thể hỏi cắc cớ thế chân đạp, tay thụi có phải là thượng cẳng chân, hạ cẳng tay không? Cái “phi lý” của thành ngữ này mạnh đến nỗi hai nhà nghiên cứu văn học dân gian N.L. và L.V.Đ. trong quyển từ điển Thành ngữ tiếng Việt (1978, nxb KHXH) được đánh giá cao, khi trích dẫn thành ngữ này cũng sửa lại cho “lôgic” hơn (?): “Bà cai Hách không dám hé răng nửa lời, vì cai Hách là kẻ phàm phu, chỉ biết có thượng cẳng tay, hạ cẳng chân (Vũ Trọng Phụng, Giông tố)”. Quyển Từ điển thành ngữ VN (1993, nxb VH) của một nhóm tác giả thuộc Viện NNH cũng dựa theo lời trích dẫn đã bị sửa lại này. Thật ra nhà văn họ Vũ viết “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” (Giông tố, chương 27).
Tôi tâm đắc câu cái gì hợp lý thì tồn tại của triết gia người Đức G.W.Leibniz và đi tìm cái lý cho những cách nói có vẻ “phi lý” nhưng vẫn được dùng rất bình thường này.
2. Trước hết, mời các bạn quan sát và trả lời những câu hỏi sau:
Trong vở Thị Mầu lên chùa, người mõ “chiềng làng chiềng chạ, thượng hạ, tây đông, con gái phú ông là Thị Mầu không chồng mà chửa...”. Vì sao lời trình thượng hạ, tây đông được hiểu là lời trình tới cả làng?
Tô Hoài viết: “Họ buôn ghê lắm, thượng vàng hạ cám. Từ cái bát ăn đến sợi tơ bóng, tơ mờ của Nhật nhà cậu vẫn làm đấy...”. (Mười năm). Vì sao buôn thượng vàng hạ cám được hiểu là buôn đủ mọi thứ?
Nghĩa của câu “Làm trai cho đáng nên trai//Xuống đông, đông tĩnh; lên đoài, đoài yên” là “tài trai là đi tới nơi nào liền đưa lại yên bình cho nơi đó”. Vì sao xuống đông lên đoài được hiểu là đi khắp nơi?
Vì sao “đầu đuôi câu chuyện” được hiểu là “toàn bộ câu chuyện”?
Còn “chuyện bậy bạ của quan chức X chỉ một hôm là trong Nam ngoài Bắc đều biết” có nghĩa “... chỉ một hôm cả nước đều biết”. Vì sao cặp từ Nam - Bắc lại là cả nước?

Nói thêm về cách hiểu một số thành ngữ “phi logic”

TT - Nhân bài Triết lý tiếng Việt trong “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” (Tuổi Trẻ, ngày 14-4), một số bạn đọc đã gửi thư về tòa soạn hỏi về cách giải thích mấy thành ngữ “ngược đời” như: cao chạy xa bay, mẹ tròn con vuông, nhường cơm sẻ áo, mình đồng da sắt, con ông cháu cha, ăn gió nằm sương...
Tôi xin nói vắn tắt cách chỉ ra cái lý những thành ngữ này: nghĩa của chúng được hình thành theo cách biểu trưng từng cặp.
Thành ngữ “cao chạy xa bay” có hai cặp: “chạy, bay” và “cao, xa”. Chạy, bay biểu trưng cho trốn đi. Cái gì càng cao, càng xa thì càng khó thấy, tới lúc sẽ không thấy đâu nữa. Vậy cặp cao, xa biểu trưng cho biệt tăm. Cộng hai nghĩa này lại, chúng ta được: cao chạy xa bay = (chạy, bay) + (cao, xa) = trốn đi biệt tăm.
Xin các bạn lưu ý: không chỉ trốn đi theo cách chạy, bay, trốn chạy bằng taxi hay bằng xe ôm vẫn là cao chạy xa bay, là xa chạy cao bay, cao bay xa chạy.
Thành ngữ “mẹ tròn con vuông” cũng có hai cặp: “mẹ, con” và “tròn, vuông”. Mẹ, con là việc sinh nở. Vuông, tròn là hai hình hoàn hảo. Người Việt làm bánh chưng, bánh giầy theo hai hình này. Vậy cặp tròn, vuông biểu trưng cho sự hoàn hảo. Cộng hai nghĩa này lại, chúng ta được: mẹ tròn con vuông = (mẹ, con) + (tròn, vuông) = việc sinh nở thuận lợi (hoàn hảo).
Cứ vậy, các bạn dễ dàng giải thích được những thành ngữ “nghịch nhĩ” khác.
NGUYỄN ĐỨC DÂN
Nguồn: http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/374181/noi-them-ve-cach-hieu-mot-so-thanh-ngu-phi-logic.html

Từ đồng nghĩa, từ gần nghĩa - nét đặc sắc của tiếng Việt

TT - Nói về sự giàu và đẹp của tiếng Việt, xin mượn câu chuyện nhỏ: năm 1945 khi còn dạy học ở Huế, giáo sư Nguyễn Lân đã đề nghị học trò mình tìm trong tiếng Việt từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với từ couper (chặt, xắt, cắt...) trong tiếng Pháp. “Tôi không ngờ - giáo sư kể lại - anh chị đã đưa đến ba bốn chục từ VN.
Thí dụ về tác dụng của con dao, anh chị em đã nêu lên: cắt bánh, chặt cành, bổ củi, đẵn cây, róc mía, đẽo cày, ngả cây, chẻ tăm, vót đũa, gọt bút chì, xắn bánh dẻo, cắt giò, xén giấy, thái thịt, tiện mía, cứa cổ, chém đầu, beng đầu, phanh thây, xẻo mũi, mổ bụng, vằm mặt, vạt mặt, rạch đùi, băm bầu, khía bầu dục, phát bờ, phát bụi, lạng mỡ, khoét lỗ, tỉa thủy tiên, khắc tên...” (1).
Nói về từ “mang” - từ được coi là trung tính để diễn tả hành động dời một vật từ nơi này sang nơi khác, nhà nghiên cứu Long Điền Nguyễn Văn Minh trong Việt ngữ tinh nghĩa từ điển đã liệt kê những từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa: ẵm, bê, bế, bồng, bưng, cầm, cắp, cáng, cõng, chở, dắt, giắt, dun, dảy, đẩy, đem, đeo, đèo, đội, đun, đưa, gánh, gồng, kéo, kèm, khênh, khiêng, khuân, lê, lăn, lôi, nâng, nẫng, nưng, nhấc, ôm, quẳng, quảy, tải, tha, tung, vác, vần, vất, võng, vứt, xe, xách (2).
Nói về cái chết, Bằng Giang đã thống kê được... 1.001 cách diễn đạt (3), trong đó có nhiều cách diễn đạt mang tính đặc thù trong một văn bản nhất định, còn nhiều cách diễn đạt khác có thể coi là từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa.
Dĩ nhiên, mỗi từ sắc thái biểu cảm, ý nghĩa và cách dùng không hoàn toàn giống nhau, thậm chí có những nét khác xa nhau mà không thể lẫn lộn được. Chẳng hạn, chỉ có thể nói bửa củi, chẻ củi, chặt củi chứ không thể cắt củi, chém củi, vót củi...
Trên thực tế có những sự vật, hiện tượng gần gũi với nhau, có liên hệ nhau nhưng không hoàn toàn giống nhau, vì vậy phải dùng từ (ngữ) cho chính xác, tức gọi tên cho chính xác.
Chẳng hạn, ao, bàu, đầm, đìa, hồ, kênh (kinh), khe, lạch, phá, rạch, sông, suối, vịnh, vũng... đều có chung đặc điểm là nơi chứa (nhiều) nước nhưng với ao, bàu, đầm, đìa, hồ... thì nước tĩnh, không có dòng chảy; còn kênh, lạch, rạch, sông, suối... lại có nước chảy. Dù vậy, giữa ao và đìa cũng không giống nhau - đìa là nơi được đào rồi để cá vào ở tự nhiên, còn ao là nơi được đào để nuôi cá.
Hay giữa kênh và rạch cũng khác nhau - kênh là do con người đào nên, còn rạch là dòng chảy tự nhiên (nhưng lại khác với suối, rạch chỉ dòng chảy ở vùng đồng bằng)...
Do đó, để giới thiệu nét đặc sắc của tiếng Việt, qua đó khơi gợi lòng yêu quý tiếng ngôn ngữ của dân tộc trong học sinh, trong chương trình dạy môn tiếng Việt (hay ngữ văn), ngay từ tiểu học cần chú ý giảng và thực hành nhiều về từ đồng nghĩa, gần nghĩa.
TRÚC GIANG (quận 3, TP.HCM)
(1) Dẫn theo Tiếng Việt phong phú, Bằng Giang, NXB Văn Hóa, 1997, tr.20.
(2) Long Điền Nguyễn Văn Minh, Việt ngữ tinh nghĩa từ điển, Hoa Tiên xuất bản, năm 1950, tr.31-42.
(3) Tiếng Việt phong phú, sđd.
Nguồn: http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/394359/tu-dong-nghia-tu-gan-nghia-net-dac-sac-cua-tieng-viet.html

Sai một li, đi vài dặm

TT - Những tên gọi hay từ ngữ được dùng sai nhưng khi đã trở thành thông dụng lại được chấp nhận, là một hiện tượng rất phổ biến trong tiếng Việt hiện hành.
Kha Vạng Cân là một nhà cách mạng danh tiếng từng giữ chức bộ trưởng trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Tên ông được khắc rõ ràng trên bia mộ tại nghĩa trang TP.HCM. Trong khi đó, một đường phố lớn tại quận Thủ Đức (TP.HCM) được mang tên một người là Kha Vạn Cân (so với tên của nhà cách mạng danh tiếng trên thì chỉ thiếu một chữ “g”).
Sẽ có nhiều người hiểu đó là hai cái tên gần giống nhau của hai người khác nhau. Nhưng những ai có kiến thức lịch sử đều ngầm hiểu đường phố đó được đặt tên như vậy là để tôn vinh sự nghiệp của nhà cách mạng đã quá cố nêu trên, dù rằng tên ông đã được “cách tân” tí chút do lỗi chính tả hay thói quen dùng từ của người Việt: “Vạng Cân” nghe rất lạ, còn “Vạn Cân” thì thấy quen nên được dùng!
Gia đình cố bộ trưởng Kha Vạng Cân đã kiên quyết làm đơn khiếu nại với các cơ quan hữu trách để đòi lại chữ “g” cho đúng tên ông. Không hiểu các cơ quan đã nghiên cứu đơn này đến đâu, chỉ biết rằng tên đường phố ấy cho đến nay vẫn giữ nguyên như vậy.
Cũng cần thông cảm với những thách thức mà các nhà chức trách gặp phải khi giải quyết đơn này. Thêm “g” để gọi đúng tên danh nhân được tôn vinh thì không khó. Nhưng rắc rối là ở chỗ cái tên Kha Vạn Cân tồn tại đã khá lâu nên đã trở thành “truyền thống” của đường phố này.
Với hàng ngàn sổ hộ khẩu, hàng vạn giấy khai sinh và hàng triệu giấy tờ giao dịch khác mang cái tên đường phố đó, nay thêm chữ “g” vào đó thì sẽ phát sinh bao nhiêu thủ tục hành chính để giải quyết sự việc một cách triệt để?

Phong ba bão táp có bằng ngữ pháp VN?

TT - 1. Học sinh và giáo viên dạy văn có câu châm biếm truyền miệng “phong ba bão táp không bằng ngữ pháp VN”.
Phần đúng của câu trên phản ánh một thực tế: sách giáo khoa  (SGK) tiếng Việt trường phổ thông đã cung cấp cho học sinh quá nhiều kiến thức tiếng Việt không cần thiết. Ðiều này xuất phát từ quan niệm đã là SGK cần giải thích được tất cả những hiện tượng ngữ pháp tiếng Việt.
Hệ quả là các nhà viết SGK luôn tìm cách đưa vào sách một loạt khái niệm nhằm giải thích được càng nhiều càng tốt những hiện tượng tiếng Việt. Mà những hiện tượng trên bề mặt ngôn từ lại vô cùng phong phú và phức tạp. Thế là sinh rối, sinh ra những “phong ba bão táp” trong hệ thống khái niệm ngữ pháp...
Ðiều này dẫn tới một toan tính khác: có người cho rằng ngữ pháp lâu nay chúng ta dạy trong nhà trường (được gọi là ngữ pháp chủ vị - một câu có hai phần chủ ngữvà vị ngữ) là thứ ngữ pháp không thích hợp, cần được thay bằng ngữ pháp chức năng, còn gọi là ngữ pháp đề thuyết - một câu có hai phần đề ngữ và thuyết ngữ.
2. Thật ra thời trước những người viết SGK chưa có nhiều kiến thức ngôn ngữ học “uyên bác” như các tác giả SGK thời nay, và nhà trường vẫn dạy thứ ngữ pháp chủ vị và chỉ là những kiến thức tiếng Việt tối thiểu. Ấy thế nhưng chỉ cần học xong trung học, thậm chí tiểu học, đa số đều viết đúng. Như vậy không phải cứ học nhiều lý thuyết ngữ pháp là viết đúng, viết tốt.

Thiêng liêng hai chữ “đồng bào”

TT - Ngày 2-9-1945, người dân Việt Nam thời hiện đại được nghe ngân nga hai chữ “đồng bào” từ quảng trường Ba Đình lịch sử: “Hỡi đồng bào cả nước, tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Từ lời hiệu triệu tha thiết, nồng ấm ấy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hai tiếng “đồng bào” càng trở nên thiêng liêng với tất cả những người dân Việt.
Thế nhưng, gần đây, hai tiếng “đồng bào” dường như đang bị một số phương tiện thông tin đại chúng lạm dụng và từ đó một số forum (diễn đàn) lại sử dụng sai từ này. Ví dụ tham khảo: tờ Tuổi Trẻ cũng từng giật tít to: Cựu tổng thống Hàn Quốc xin lỗi đồng bào. Hoặc trong một bản dịch khác có chi tiết: “Năm 1984, Tổng thống Mỹ Ronald Reagan đã suýt gây ra cuộc chiến tranh với Nga khi nói vào micro để kiểm tra âm thanh: “Hỡi đồng bào, tôi rất vui mừng được thông báo rằng...”.
Trong nhiều bản dịch, tôi thấy từ "quốc dân", "nhân dân", "người dân"... nói chung đã bị dịch ép thành "đồng bào" như thế. Bạn đọc vào công cụ tìm kiếm Google có thể tìm được hàng chục, thậm chí hàng trăm trường hợp từ đồng bào được vận dụng không hợp lý.
Cho dù “đồng bào” không phải là một từ thuần Việt nhưng tìm trong nhiều tài liệu, tôi không thấy dân tộc nào có truyền thuyết “trăm trứng nở trăm con” như người Việt ta cả.
“Đồng bào bởi thế là một từ đặc sắc, rất đỗi tự hào chỉ của người dân Việt - những người "cùng bọc trứng". Nhìn rộng hơn, chúng ta có cái "nghĩa đồng bào”. Nghĩa tình đó là vốn liếng, là sức mạnh để chúng ta chiến thắng thiên nhiên, chiến thắng kẻ thù.
Giữ lấy nước, cũng là giữ lấy cái nghĩa đồng bào, giữ lấy sự trong sạch, độc đáo trong hai chữ thiêng liêng ấy. Hai chữ ấy không thể chia sẻ, không thể cho không người khác, bởi đó là ruột rà, bởi ông cha ta đã truyền dạy như thế - dù miền ngược, miền xuôi, dù trên rừng, dưới biển, dù ở xa hay ở gần, người Việt nào cũng có tổ tiên được sinh ra từ bọc trứng Âu Cơ.
CHÂU ANH DŨNG (chauanhdung77@...)
Nguồn: http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/440417/thieng-lieng-hai-chu-dong-bao.html

Cầu trời

TT - “Đầu xuân, bạn cầu trời cho hạnh phúc. Trời muốn ban phát hạnh phúc cho đều, mỗi người được ít ngày thôi. Dù trời “keo” lại thế nào, bạn vẫn có thể dùng từ ngày thật biến ảo để được tất”, GS - TSKH Nguyễn Đức Dân giới thiệu như vậy khi gửi đến một sáng tác vui của một cộng tác viên dành cho chuyên mục Tiếng nước tôi:
- Con cầu Trời phù hộ cho những người thân cùng bạn bè của con mãi mãi được khỏe mạnh và hạnh phúc! Đặc biệt là các nhà ngôn ngữ học VN ạ. Họ đang...họ đang...
- Trời nói: “Thôi, thôi, ta biết cả, biết cả rồi. Không phải kể thêm gì nữa đâu! Nhưng họ được khỏe mạnh và hạnh phúc mãi mãi à?
Ta chỉ cho bốn ngày thôi! Sau đó thì...”.
- Thế thì xin Trời cho họ được khỏe mạnh và hạnh phúc trong ngày xuân, ngày hạ, ngày thu và ngày đông ạ.
- Trời nói: “Nhiều quá! Vậy ta chỉ cho ba ngày thôi!”.
- Nếu chỉ được ba ngày, thì con xin cho họ được khỏe mạnh và hạnh phúc trong ngày hôm qua, ngày hôm nay và ngày mai, được không ạ?
- Trời nói: “Ôi dà, vẫn còn nhiều vậy ư? Thế thì ta chỉ cho hai ngày thôi!”.
- Như vậy thì con xin cho họ được khỏe mạnh và hạnh phúc trong ngày hôm nay và ngày mai ạ.
- Trời nói: “Không được. Đến ngày mai, ngày mai sẽ trở thành ngày hôm nay. Một ngày mai khác nữa lại đến. Thế thì hóa ra là...? Vậy thì ta chỉ cho một ngày thôi!”.
- Vâng, thế cũng được ạ.
- Trời ngạc nhiên hỏi: “Là ngày nào, ngày nào? Nói đi, nói đi!”.
- Con xin cho họ được mạnh khỏe và hạnh phúc mỗi ngày ạ.
- Trời làm bộ thở dài, rồi cười bảo: “Ngươi thật là... Thôi, ta đồng ý!”.
- Cảm ơn Trời ạ. Cầu Trời phù hộ cho Trời ạ!
TẠ VĂN THÔNG
Nguồn: http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/476707/cau-troi.html

Bánh không cẳng sao gọi bánh bò?

TT - Trong tiếng Việt, có những từ ngữ hoặc địa danh sử dụng hằng ngày mà nếu có người hỏi tại sao nói thế và nguồn gốc của những từ ngữ ấy từ đâu thì chúng ta đành bó tay; chẳng hạn câu hỏi trên trong một bài ca dao (Nước không chưn sao kêu nước đứng? Cá không giò sao gọi cá leo? Ghe không tay sao kêu ghe vạch? Bánh không cẳng sao gọi bánh bò?...).


Chúng ta chỉ có thể giải đáp câu trên dựa vào cuốn Ðại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, xuất bản cách đây trên 110 năm. Trong sách này, tác giả ghi bánh vú bò và giải thích vì bánh đổ vào chén, trông giống như cái vú con bò. Về sau rút gọn thành bánh bò. Ðây là hiện tượng tỉnh lược trong ngôn ngữ. Các từ sau đây cũng bị hiện tượng tỉnh lược chi phối: dầu con rái => dầu rái, nấm tai mèo => nấm mèo...
Ở miền Bắc có một loài cá giống và to bằng cá chép, nhưng có đặc điểm là tươi rất lâu tên là cá rói. Dù bị bắt ra khỏi nước từ sáng đến trưa cá vẫn còn tươi nên có thành ngữ tươi như cá rói, về sau tỉnh lược thành tươi rói. Một thành ngữ tương tự: ngay như cây chò(một loại cây rừng thân rất thẳng) => ngay chò (ở Nam bộ biến âm thành ngay chừ). Cầu Kiệu ở TP.HCM được Trương Vĩnh Ký ghi là cầu Xóm Kiệu (tức là xóm chuyên trồng kiệu), như vậy chữ Xóm ban đầu đã bị giản lược.
Một từ khá phổ biến ở Nam bộ dùng để chỉ người phụ giúp tài xế lái xe đò trong công việc bán vé, thu tiền, khiêng xách hành lý là lơ xe. Từ này bắt nguồn từ tiếng Pháp contrôleur, nghĩa là “người kiểm soát (vé)”. Như vậy, từ một âm tiết vô nghĩa - leur, người Việt biến thành một từ có nghĩa.
Ở miền Bắc, người ta thường dùng từ ngữ săm lốp để chỉ vỏ ruột xe đạp và xe gắn máy. Lốp thì người miền Nam cũng dùng và những người biết tiếng Pháp đều biết nó bắt nguồn từ enveloppe, nghĩa là “vỏ xe”. Còn săm ban đầu người miền Nam và nhất là những người không học tiếng Pháp không hiểu nghĩa. Từ săm bắt nguồn từ ngữchambre à air “ruột xe”.

Nước không chưn sao kêu nước đứng?

TT - Nam bộ là vùng sông nước, nhiều kênh rạch, nhiều loài cá tôm, phương tiện giao thông quan trọng là ghe xuồng nên rất nhiều câu ca dao nói tới sông nước, ghe xuồng và những sản vật sông nước.Với tư duy hồn nhiên và thích chơi chữ, người dân Nam bộ phát hiện những “mâu thuẫn” thú vị về tên gọi của nhiều đồ vật, sản vật, con vật và đặc biệt là loài cá:
Nước không chưn sao kêu nước đứngCá không giò sao gọi cá leo?Ghe không tay sao kêu ghe vạchBánh không cẳng sao gọi bánh bò?
Trong câu ca dao trên, các từ cá leo, ghe vạch, bánh bò là tên gọi. Leo, vạch, bò không phải là động từ mà là danh từ nhằm gọi tên. Đứng đúng là động từ nhưng đã được dùng chuyển nghĩa tạo ra ẩn dụ.
Cách dùng ẩn dụ cho từ đứng
Con trâu đứng ở bờ tre. Trúc xinh trúc mọc bờ ao/Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh (ca dao). Ðó là những cách dùng thông thường. Nhưng “trời đứng gió”, “mặt trời đứng bóng”, “Nước không chưn cớ sao nước đứng?” là những cách dùng ẩn dụ của từ đứng.
Người Việt có kiểu dùng ẩn dụ “đứng” cho những trạng thái hoạt động nào giống tính chất mà con người hoặc động vật đứng. Ði là chuyển động còn đứng là ngừng lại, không chuyển động nữa. Khi đang đi mà đứng lại, ấy là chúng ta không chuyển động nữa, về cơ bản coi như bất động. Những hiện tượng nào đang thay đổi mà chuyển sang trạng thái trong nhận thức của người Việt coi là bất động hoặc gần như bất động sẽ được xem là đứng. Ðó là những trạng thái đứng. Ðây là cách dùng ẩn dụ của từ đứng.
Chiếc đồng hồ đang chạy, hết pin nên đồng hồ đứng lại. Trời không gió, là gió không thổi. Chúng ta gọi là trời đứng gió. Lúa đang phát triển chuyển sang giai đoạn ngừng đẻ nhánh, thân và láđứng thẳng và đang chuẩn bị làm đòng, nhà nông gọi là lúa đứng cái. Mặt trời di chuyển, bóng các vật cũng chuyển động theo, tới lúc mặt trời ở ngay đỉnh đầu, bóng không di chuyển nữa. Lúc đó chúng ta nói mặt trời đã đứng bóng. Trong bài thơ Tiếng hát sông Hương, nhà thơ Tố Hữu đã dùng ẩn dụ “trăng đứng” theo cách này: “Trăng lên trăng đứng trăng tàn/Ðời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng”.
Khi còn trẻ, bề ngoài con người thay đổi rất nhanh. Tới một tuổi nào đó, một người không còn trẻ nhưng cũng chưa già, hình thức giai đoạn này hầu như không thay đổi nên được gọi là “một người đã đứng tuổi”. Một người khi số phận đã ổn định, không còn thay đổi nữa thì người đó được gọi là đã đứng số.
Tới đây, chúng ta giải thích được vì sao nói nước đứng. Con nước đang lên, tới đỉnh điểm thì dừng lại hoặc đang xuống tới hết mức thì dừng lại. Ðó là lúc nước đứng..

Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than

TT - Chúng ta biết rằng những nhà thơ, nhà văn lớn thường làm giàu thêm ngôn ngữ của dân tộc mình. Nêu vai trò của Goethe trong ngôn ngữ nước Đức, có người nói rằng Goethe đã tạo ra một nửa thành ngữ của Đức.



Còn đối với đại thi hào Nguyễn Du của chúng ta, không những cụ đã sử dụng các thành ngữ, tục ngữ... một cách tài tình mà còn sáng tạo ra nhiều thành ngữ mới. Bên cạnh đó, nhiều từ trong tiếng Việt được mở rộng thêm nghĩa khi qua bàn tay cụ. Không thể thống kê hết những từ như vậy, chúng ta chỉ nêu một vài ví dụ để minh chứng điều đó.
Mới mẻ chữ “nỗi” của Nguyễn Du
Theo Từ điển tiếng Việt, chữ NỖI có hai ý. Thứ nhất là chỉ sự tình, sự thể không hay xảy ra, nói về mặt tác động đến tình cảm của con người như “nỗi bất công”, “nỗi oan ức”. Thứ hai là từ dùng để chỉ tâm trạng, tình cảm cụ thể (thường vào loại không được như ý muốn) mà con người phải trả qua, Ví dụ như “nỗi buồn, nỗi nhớ”...
"Nếu vậy, chính Nguyễn Du đã sáng tạo ba chữ “nỗi dọc đường” để nói chuyện tình tang ngoài vợ của các đấng nam nhi. Hiện đại biết chừng nào!"
Ðể xem đại thi hào Nguyễn Du đã sử dụng chữ NỖI như thế nào, trước hết thử điểm danh những câu thơ có chữ NỖI trong Truyện Kiều:
Câu 109: Nỗi niềm tưởng đến mà đau/Câu 178: Rộn đường gần với nỗi xa bời bời/Câu 221: Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi/Câu 246: Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây/Câu 535: Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng/Câu 537: Gót đầu mọi nỗi đinh ninh/Câu 538: Nỗi nhà tang tócnỗi mình xa xôi/Câu 777: Xiết bao kể nỗi thảm sầu/Câu 852:Phần căm nỗi kháchphần nhơ nỗi mình/Câu 987: Nỗi oan vỡ lở xa gần/Câu 1.015: Kề tai mấy nỗi nằn nì/Câu 1.082: Nỗi nhà báo đápnỗi thân lạc loài/Câu 1.208: Nỗi đêmkhép mởnỗi ngày riêng chung/Câu 1.220: Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe/Câu 1.250: Ngẩn ngơ trăm nỗi dùi mài một thân/Câu 1.251: Nỗi lòng đòi đoạn xa gần/Câu 1.318: Nỗi quê còn một hai điều ngang ngang/Câu 1.444: Ðể nàng cho đến nỗi này vì tôi/Câu 1.464: Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong/Câu 1.527: Kể chi những nỗi dọc đường/Câu 1.528: Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà/Câu 1.635: Thân sao lắm nỗi bất bằng/Câu 1.790: Nỗi gần nào biết đường xa thế nào/Câu 1.870: Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng/Câu 1.888: Phải chi mình lại xót xa nỗi mình/Câu 1.904: Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời/Câu 1.943: Sụt sùi giở nỗi đoạn trường/Câu 2.000: Nỗi ôngvật vãnỗi nàng thở than/Câu 2.006: Nghĩ mà thêm nỗi sởn gai rụng rời/Câu 2.069:Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mình/Câu 2.246: Ðường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời/Câu 2.739: Nỗi nàng tai nạn đã đầy/Câu 2.740: Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy càng thương/Câu 2.754: Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai/Câu 2.770: Càng ngao ngán nỗi,càng ngơ ngẩn dường/Câu 2.776: Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?/Câu 2.782:Cực trăm ngàn nỗi, dặn ba bốn lần/Câu 2.799: Thấy chàng đau nỗi biệt ly/Câu 2.812:Ðể cho đến nỗi trôi hoa, giạt bèo/Câu 2.819: Nỗi thương nói chẳng hết lời/Câu 3.027:Nỗi mừng biết lấy gì cân/Câu 3.102: Ðã xong thân thế còn toan nỗi nào/Câu 3.140: Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao...
Có thể thống kê được 56 câu thơ trong Truyện Kiều có chữ “nỗi”. Trừ hai lần “nỗi” kết hợp với “niềm” để thành danh từ “nỗi niềm”, còn ở 54 câu còn lại, ta xem đại thi hào đã sử dụng chữ này như thế nào.

Thứ Hai, 10 tháng 3, 2014

Về "Trao duyên" - Nguyễn Quốc Huy

Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên năm 1994 có định nghĩa : “Duyên: Phần cho là trời định dành cho mỗi người, về khả năng có quan hệ tình cảm (thường là quan hệ nam nữ, vợ chồng) hòa hợp, gắn bó nào đó trong cuộc đời” (tr.259). Và như thế Trao duyên là gửi gắm nỗi niềm nhớ thương của một người dành cho một người, ấy là cuộc hành trình nối liền trái tim đến trái tim với những rung động luyến ái chân thành. Thế nhưng với Kiều, kỳ lạ thay Trao duyên lại là nước mắt phụ tình, là nỗi lòng đứt đoạn của một kiếp hồng nhan trong cõi đoạn trường bạc mệnh.
Trao duyên là câu chuyện của hai người: kẻ trao và người nhận nhưng chạy suốt đoạn trích lại là tiếng nói của một người, đúng hơn là tiếng nói đa thanh của một tâm trạng. Những mâu thuẫn ấy đã đưa người đọc đến với Trao duyên vừa để thỏa mãn tính tò mò bởi những xung động tâm lý phức điệu mang đậm đặc yếu tố phi logic, vừa để chứng kiến nỗi đau đầu đời của người con gái Tài-Tình hiếu hạnh Thúy Kiều: nỗi đau tự cắt bỏ duyên tình.
 “Yêu nhau cởi áo trao nhau”. Nhưng trao áo cũng không phải là chuyện dễ dàng bởi những bối rối trong cảm xúc yêu thương của cả hai phía, người ta hiểu rằng trao áo cũng chính là trao thân gửi phận nhưng so với trao duyên thì sự khó khăn ấy còn nhân lên gấp bội. Áo vốn là vật hữu hình, là yếu tố định lượng, còn Duyên vô hình, là yếu tố định tính, lại đặt trong cái thế của “tình chị, duyên em” thì chuyện ấy, “hở môi ra” đã thẹn. Biết thẹn mà phải nói, nói để mà trao. Trao để tình chàng Kim không còn dang dở, trao để bước chân phong trần của đời mình không còn níu kéo duyên tình. Còn gì đau đớn hơn khi tự tay mình phải cắt bỏ mối tình đầu thơ mộng, còn gì đau đớn hơn trái tim yêu vùi dập trong nước mắt chia lìa. Chỉ có một đêm, nhưng cái đêm ám ảnh ấy Kiều phải tàn nhẫn với chính mình, phải quay lưng lại với những điều mà nàng vẫn tôn thờ. Trăm mối tơ lòng ngổn ngang, câu chuyện “hở môi ra cũng thẹn thùng” giờ là nỗi trăn trở đè nặng lên đêm cuối định mệnh của Kiều. Làm sao để Vân có thể chấp nhận chàng Kim? Làm sao để Vân mở lòng để đón một chữ tình dang dở?