Tài liệu Ngữ văn xin chào bạn! Cám ơn bạn đã ghé thăm blog!

Thứ Tư, 12 tháng 3, 2014

Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than

TT - Chúng ta biết rằng những nhà thơ, nhà văn lớn thường làm giàu thêm ngôn ngữ của dân tộc mình. Nêu vai trò của Goethe trong ngôn ngữ nước Đức, có người nói rằng Goethe đã tạo ra một nửa thành ngữ của Đức.



Còn đối với đại thi hào Nguyễn Du của chúng ta, không những cụ đã sử dụng các thành ngữ, tục ngữ... một cách tài tình mà còn sáng tạo ra nhiều thành ngữ mới. Bên cạnh đó, nhiều từ trong tiếng Việt được mở rộng thêm nghĩa khi qua bàn tay cụ. Không thể thống kê hết những từ như vậy, chúng ta chỉ nêu một vài ví dụ để minh chứng điều đó.
Mới mẻ chữ “nỗi” của Nguyễn Du
Theo Từ điển tiếng Việt, chữ NỖI có hai ý. Thứ nhất là chỉ sự tình, sự thể không hay xảy ra, nói về mặt tác động đến tình cảm của con người như “nỗi bất công”, “nỗi oan ức”. Thứ hai là từ dùng để chỉ tâm trạng, tình cảm cụ thể (thường vào loại không được như ý muốn) mà con người phải trả qua, Ví dụ như “nỗi buồn, nỗi nhớ”...
"Nếu vậy, chính Nguyễn Du đã sáng tạo ba chữ “nỗi dọc đường” để nói chuyện tình tang ngoài vợ của các đấng nam nhi. Hiện đại biết chừng nào!"
Ðể xem đại thi hào Nguyễn Du đã sử dụng chữ NỖI như thế nào, trước hết thử điểm danh những câu thơ có chữ NỖI trong Truyện Kiều:
Câu 109: Nỗi niềm tưởng đến mà đau/Câu 178: Rộn đường gần với nỗi xa bời bời/Câu 221: Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi/Câu 246: Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây/Câu 535: Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng/Câu 537: Gót đầu mọi nỗi đinh ninh/Câu 538: Nỗi nhà tang tócnỗi mình xa xôi/Câu 777: Xiết bao kể nỗi thảm sầu/Câu 852:Phần căm nỗi kháchphần nhơ nỗi mình/Câu 987: Nỗi oan vỡ lở xa gần/Câu 1.015: Kề tai mấy nỗi nằn nì/Câu 1.082: Nỗi nhà báo đápnỗi thân lạc loài/Câu 1.208: Nỗi đêmkhép mởnỗi ngày riêng chung/Câu 1.220: Nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe/Câu 1.250: Ngẩn ngơ trăm nỗi dùi mài một thân/Câu 1.251: Nỗi lòng đòi đoạn xa gần/Câu 1.318: Nỗi quê còn một hai điều ngang ngang/Câu 1.444: Ðể nàng cho đến nỗi này vì tôi/Câu 1.464: Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong/Câu 1.527: Kể chi những nỗi dọc đường/Câu 1.528: Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà/Câu 1.635: Thân sao lắm nỗi bất bằng/Câu 1.790: Nỗi gần nào biết đường xa thế nào/Câu 1.870: Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng/Câu 1.888: Phải chi mình lại xót xa nỗi mình/Câu 1.904: Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời/Câu 1.943: Sụt sùi giở nỗi đoạn trường/Câu 2.000: Nỗi ôngvật vãnỗi nàng thở than/Câu 2.006: Nghĩ mà thêm nỗi sởn gai rụng rời/Câu 2.069:Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mình/Câu 2.246: Ðường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời/Câu 2.739: Nỗi nàng tai nạn đã đầy/Câu 2.740: Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy càng thương/Câu 2.754: Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai/Câu 2.770: Càng ngao ngán nỗi,càng ngơ ngẩn dường/Câu 2.776: Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?/Câu 2.782:Cực trăm ngàn nỗi, dặn ba bốn lần/Câu 2.799: Thấy chàng đau nỗi biệt ly/Câu 2.812:Ðể cho đến nỗi trôi hoa, giạt bèo/Câu 2.819: Nỗi thương nói chẳng hết lời/Câu 3.027:Nỗi mừng biết lấy gì cân/Câu 3.102: Ðã xong thân thế còn toan nỗi nào/Câu 3.140: Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao...
Có thể thống kê được 56 câu thơ trong Truyện Kiều có chữ “nỗi”. Trừ hai lần “nỗi” kết hợp với “niềm” để thành danh từ “nỗi niềm”, còn ở 54 câu còn lại, ta xem đại thi hào đã sử dụng chữ này như thế nào.

Như Từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa ở trên cũng như theo thói quen thông thường của chúng ta, chữ “nỗi” thường được kết hợp với một tính từ để tạo thành danh từ như “nỗi đau”, “nỗi khổ”, “nỗi buồn”, “nỗi oan ức”, “nỗi bất công”... Trong Truyện Kiều, sự kết hợp này khá phổ biến, đó là “nỗi kinh hoàng”, “nỗi thảm sầu”, “nỗi oan”, “nỗi bất bình”, “nỗi bất bằng”, “nỗi biệt ly”... Bên cạnh đó là sự kết hợp khá quen thuộc với chúng ta hôm nay như “nỗi lòng”... Còn phần lớn trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng chữ “nỗi” thật mới mẻ, mới mẻ đến nỗi cho đến ngày nay, sau khi Truyện Kiềuđã được sáng tác trên 200 năm, chúng ta vẫn chưa mấy ai dám sử dụng chữ này như cụ.
“Nỗi dọc đường” của Thúc Sinh
Trước hết là chữ “nỗi” đứng độc lập, không kết hợp với một tính từ hay danh từ nào để có một ý nghĩa cụ thể, mà cụ dành phần đó cho người đọc suy nghĩ mà hiểu lấy. Ðó là “gót đầu mọi nỗi đinh ninh”, là khi chàng Kim nghe tin chú mất, tìm tới để than vãn với nàng Kiều. Tác giả không nói cụ thể Kim Trọng tâm sự những gì, mà chỉ dùng hai chữ “mọi nỗi”, chữ “nỗi” ở đây hàm ý những “chuyện” của nỗi lòng. Khi mụ Tú Bà khuyên giải nàng Kiều sau khi nàng toan tự tử ở lầu xanh, Nguyễn Du viết: “Kề tai mấy nỗi nằn nì” thì không ai hiểu đây là “nỗi nằn nì”, mà tác giả muốn nói mụ Tú ra vẻ nói thật lòng, đưa ra bao nhiêu chuyện để nằn nì, khuyên giải Thúy Kiều. Rồi “nước đời lắm nỗi lạ lùng khắt khe”, và “Cực trăm ngàn nỗi dặn ba bốn lần”... thì chữ “nỗi” cũng theo nghĩa “tổng quát” này.
Không biết thời cụ Nguyễn Du về trước đã ai đem kết hợp chữ “nỗi” với một đại từ nhân xưng như trong Truyện Kiều hay chưa, điều mà ngày nay chúng ta ít thấy trên thi đàn. Ðó là “nỗi nàng”, “nỗi chàng”, “nỗi ông”, “nỗi mình”... Cách dùng này hiệu quả và mới mẻ ngay cả thế kỷ 21 này.
Nguyễn Du mạnh dạn kết hợp chữ “nỗi” với một danh từ chỉ thời gian như “nỗi đêm”, “nỗi ngày” làm cho ý nghĩa chữ “nỗi” được mở rộng ra, gợi người đọc suy nghĩ, liên tưởng. Rồi “nỗi riêng”, “nỗi gần” và bao nhiêu “nỗi” khác nữa.
Trong Truyện Kiều có hai câu thơ tác giả dùng chữ “nỗi”, theo tôi, là “táo bạo” nhất:
Kể chi những nỗi dọc đường (1.527)/Buồng trong này nỗi chủ trương ở nhà (1.528)
Ðây là hai câu thơ chuyển đoạn từ việc nói Thúy Kiều để bắt đầu nói về Hoạn Thư. “Nỗi chủ trương ở nhà” là nói Thúc Sinh đã có người vợ chính thức ở nhà thì ai cũng hiểu, còn “nỗi dọc đường” là gì? Trong một chuyến đi công tác, ngồi trên xe có nhiều nhà thơ, khi nhắc hai câu thơ này thì nhiều người hiểu rằng “nỗi dọc đường” đây là nói chuyện đi đường của Thúc Sinh. Tôi lại không hiểu như thế. Nếu chỉ nói chuyện đi đường thì Nguyễn Du sẽ không dùng chữ “nỗi” mà dùng chữ “chuyện”: chuyện dọc đường. Trong Truyện Kiều, chữ “nỗi” thường ẩn chứa ý nghĩa sâu xa hơn là “chuyện”. Vậy “nỗi dọc đường” là gì? Theo tôi, “nỗi dọc đường” của Thúc Sinh chính là Thúy Kiều, dù có hôn nhân nhưng khác xa sự hôn nhân với Hoạn Thư. Câu chuyển đoạn này nói theo ý nghĩ của Thúc Sinh, coi Hoạn Thư là quan trọng. Như thế mới có sự cân xứng giữa “nỗi dọc đường” và “nỗi chủ trương ở nhà”. Nếu vậy, chính Nguyễn Du đã sáng tạo ba chữ “nỗi dọc đường” để nói chuyện tình tang ngoài vợ của các đấng nam nhi. Hiện đại biết chừng nào!
Bên cạnh chữ “nỗi” tôi đã trình bày, các bạn có thể khảo sát chữ “khuôn” và bao chữ khác trong Truyện Kiều để thấy Nguyễn Du - đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới - đã làm ngôn ngữ chúng ta giàu thêm biết bao!

VƯƠNG TRỌNG
Nguồn: http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/590031/noi-ong-vat-va-noi-nang-tho-than.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét