“HĐT” đã gợi ra một không gian thu hẹp cùng một bức tranh thiên nhiên hiện lên với một nét rất thực mà cũng rất thơ. Thiên nhiên ấy là một buổi chiều “êm ả như ru...gió nhẹ đưa vào”. Thiên nhiên ấy còn hiện lên với cái “mùi âm ẩm” bốc lên từ một ngôi chợ đã vãn, cái mùi lẫn cùng cát bụi quen thuộc mà chị em Liên ngỡ là “mùi riêng của đất, của quê hương”. Đấy còn là hình ảnh hoa bàng rụng lả tả, là một bầu trời đêm với hàng ngàn ngôi sao lấp lánh, với ánh sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất.
TL không mô tả thiên nhiên với những gì vô tri vô giác của cảnh vật; mà thiên nhiên ấy thấm đẫm hồn quê hương và hồn dân tộc. Một bức “họa đồng quê” quen thuộc, gần gũi, bình dị và gợi cảm, không kém phần thơ mộng vừa bộc lộ sự cảm nhận tinh tế của hồn thơ TL vừa thể hiện được tình cảm, sự gắn bó của nhà văn với một vùng quê nghèo.
1.2. Bức tranh hiện thực đời sống phố huyện nghèo:
- Bức tranh thiên nhiên >< bức tranh đời sống.
a. Phố huyện lúc chiều về:
- Ngày tàn:
+ Âm thanh:
• Tiếng trống thu không → bản lề khép lại ngày và chuyển về chiều; vang ra để gọi buổi chiều → mong đợi một điều gì đó từ trong bóng tối.
• Tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng
• Tiếng muỗi vo ve
→ Đơn điệu, tẻ nhạt, buồn bã, lê thê, gợi sự ngột ngạt, bức bối.
+ Ánh sáng: Phương tây đỏ rực như lửa cháy → ánh sáng và bóng tối tranh giành nhau từng tấc đất một.
+ Màu sắc: những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn → đẹp rực rỡ nhưng đó là vẻ đẹp báo hiệu sự tàn tạ.
+ Đường nét: dãy tre làng đen sẫm lại → báo hiệu cái tối đã bước đến phố huyện.
+ Mùi vị: mùi riêng của đất, của quê hương → gần gũi, yêu mến nhưng đó cũng là mùi vị của sự nghèo khổ, lầm than.
Không gian nghèo nàn, tàn tạ, một miền đời quên lãng, trong thời gian buổi chiều tà càng làm cho câu chuyện thêm buồn hơn. "Không gì buồn bằng những buổi chiều êm/ Mà ánh sáng điều hòa trong bóng tối/ Gió lướt thướt kéo mình qua cỏ rối/ Vài miếng đen u uất lẩn trong cành". (Tương tư chiều- Xuân Diệu).
- Chợ tàn:
+ Chợ vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất → thiếu âm thanh, thiếu sức sống.
+ Chợ phiên → rác rưởi chỉ là thanh tre, thanh nứa, lá nhãn, vỏ thị,... → nghèo nàn.
+ Những đứa trẻ con nhà nghèo lom khom đi nhặt nhạnh những thứ còn sót lại trên mặt đất → đi lại chập chờn như những linh hồn bơ vơ, phải tự kiếm sống khi tuổi đời còn nhỏ và cứ phải sống như thế mà không hứa hẹn điều gì tốt đẹp ở tương lai.
- Đồ vật tàn: cái chõng nát, những bát nước sứt mẻ, manh chiếu rách.
Thể hiện rõ nét sự tàn tạ của một làng quê.
b. Phố huyện lúc đêm xuống:
- Cả phố huyện chìm ngập trong bóng tối:
+ Bóng tối bò ra từ trong lòng đất và nhanh chóng phủ trùm phố huyện: "tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa". Tối đến mức cả tiếng đàn bầu của bác Xẩm và tiếng trống cầm canh của phố huyện tưởng chừng cũng không vang lên được
+ Ánh sáng chỉ là những “hột sáng”, “khe sáng”, “vệt sáng”, “quầng sáng”, “chấm lửa nhỏ”…, ít ỏi đến nỗi một hòn đá nhỏ cũng bị phân ra thành hai nửa sáng tối → yếu ớt, nhỏ bé, lay lắt, chập chờn.
Sử dụng thủ pháp tương phản để thể hiện sự ngự trị của bóng tối, ma lực của bóng tối làm đặc quánh không gian phố huyện vốn đã ngột ngạt → gợi nỗi buồn đầy cảm thương về kiếp sống chìm khuất, về những thân phận như “bị bỏ quên” nơi ga xép phố huyện.
+ Để thoát khỏi không gian tù túng đầy bóng tối đó chỉ có cách là ngước mặt lên bầu trời, tìm đến ánh sáng của hàng ngàn ngôi sao lấp lánh; nhưng rồi ánh sáng kia cũng xa xôi như những tia hi vọng của con người ở miền đất chết này khiến đứa trẻ như Liên mỏi trí nghĩ và lại quay trở về mặt đất.
+ Đặc tả ánh sáng của ngọn đèn nơi chõng nước của chị Tí: được nhắc đến 7 lần → nỗi ám ảnh về cuộc sống thực tại mòn mỏi, lay lắt, quẩn quanh, nhỏ nhoi đầy bế tắc, buồn chán, về kiếp người vô danh, vô nghĩa, sống lam lũ, vật vờ,…trong cái đêm tối mênh mông của xã hội cũ.
- Sự xuất hiện của người kiếp người lầm lụi:
+ Mẹ con chị Tí: ngày thì mò cua bắt tép, chiều dọn hàng nước bán từ chập tối cho đến đêm khuya mà “chả kiếm được bao nhiêu” → lam lũ, cực nhọc.
+ Bác phở Siêu với gánh hàng xa xỉ thì ngã sấp ngã ngửa vì ế quá, lo lắng thứ quà kia nếu nay không bán hết thì ngày mai gia đình bác có thể bị đói và bác sẽ không còn vốn để bán nữa.
+ Gia đình bác xẩm nghèo nàn, cả gia tài chỉ có manh chiếu rách, cái chậu thau và cây đàn run bầu bần bật từng tiếng não nề. Thằng con bò la lê ra đất, “nghịch nhặt nhạnh những rác bẩn vùi trong cát bên đường”.
+ Bà cụ Thi điên đời tàn đi một nửa, ngửa cổ tu rượu cười khanh khách, lầm lụi đi vào bóng tối.
+ Chị em Liên: cảnh nhà sa sút, bố Liên mất việc, cả nhà bỏ Hà Nội về quê, mẹ làm hàng xáo. Hai chị em được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, vách dán giấy nhật trình, bán lèo tèo vài bao diêm, dăm miếng xà phòng, một ít rượu.
Ngày hôm nay họ có thể còn nhiều vốn như bác phở Siêu nhưng mai khi vốn hết, họ chỉ còn cái quầy tạp hóa bán mấy thứ lèo tèo như của chị em Liên hay quán nước nhỏ như chị Tí, thậm chí tàn tạ như gia đình bác Xẩm rồi cuối cùng đời tàn đi một nửa giống bà cụ Thi điên.
Những kiếp sống nghèo nàn, cơ cực, tăm tối, bế tắc đang kéo dài cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu, nhàm chán, sống như tách khỏi thời gian: “Ối chao, sớm hay muộn mà có ăn thua gì!” → “Quanh quẩn mãi chỉ vài ba dáng điệu/ Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người” (Huy Cận).
Chừng ấy người đang “mong đợi một cái gì tươi sáng hơn đến với cuộc sống nghèo khổ hằng ngày của họ” → trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người vẫn không thôi hi vọng, mơ ước về những điều tốt đẹp → nhân văn.
c. Phố huyện về khuya:
- Sự xuất hiện của chuyến tàu từ Hà Nội đã thay đổi trong chốc lát bộ mặt của phố huyện: đoàn tàu mang đến ánh sáng, âm thanh, sự sống, làm phố huyện bừng sáng, náo nhiệt hẳn lên. Con tàu như mang đến một thế giới khác hẳn, đối lập với cảnh sống mòn mỏi, bế tắc, nghèo nàn nơi phố huyện.
- Nhưng rồi chuyến tàu cũng nhanh chóng rời phố huyện, trả lại cho nơi đây không gian tịch mịch và đầy bóng tối → sự bế tắc, mòn mỏi không thoát ra được, có ước mơ đổi thay nhưng cuộc sống không thể nào thay đổi.
- Cuộc sống của con người: chị Tí dọn hàng nước, bác Siêu dọn gánh trở về, cả nhà bác Xẩm ngủ gục trên manh chiếu, Liên chìm vào giấc ngủ → tiếng thở dài cho những cảnh đời lặng lẽ.
1.3. Ý nghĩa:
- Lời gợi nhắc về tình cảm đối
với nguồn cội, quê hương với những mẩu kí ức đẹp mà buồn (HĐT như một bài thơ
êm dịu về quê hương trong kí ức tuổi thơ).
- Giá trị hiện thực: Qua bức
tranh nhân thế thu hẹp ấy, TL đã tái hiện sự trì trệ, tù hãm của XHVN thời Pháp
thuộc, một xã hội mà có người đã từng nhận định “nổi váng lên”. Đấy là một xã
hội mà nhiều chàng trai đã phải “Sống mòn” (tác phẩm của Nam Cao) và nhiều cô
gái đã phải “hiện hữu như một thứ hư vô” (Tỏa nhị Kiều – Xuân Diệu).
- Giá trị nhân đạo:
+ Cái nhìn đồng cảm, thương xót
sâu sắc đối với những số phận nhỏ bé của người lao động nghèo.
+ Niềm trân trọng đối với từng
điều mong ước nhỏ nhoi, khiêm nhường nhất của con người bất hạnh bị “bỏ quên”
nơi ga xép của những chuyến tàu thời gian.
+ Lời cảnh tỉnh của nhà văn đối với những kiếp sống
quẩn quanh, đơn điệu, mỏi mòn: ít ra thì trong cuộc sống tẻ nhạt, buồn chán,
con người cũng phải biết khao khát một điều gì đó, hãy cố gắng vượt lên, đừng
buông xuôi theo số phận, đừng để số phận chôn vùi. Mỗi người có thể là vô danh,
song đừng sống vô nghĩa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét